Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh

docx 41 trang sk10 12/09/2024 1020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
 TRƯỜNG THPT NGUYỄN THÁI HỌC
 BÁO CÁO KẾT QUẢ
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
 Tên sáng kiến:
 DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM
 TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THPT
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
 Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Tuyết Nhung
 Mã sáng kiến: 05. 51
 Vĩnh Phúc, năm 2020
 1
 Vĩnh Phúc, năm 2018 tâm, học sinh còn lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực 
tiễn...Chính vì thế, việc rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu các tác phẩm văn học dân 
gian phải được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống, có sự đầu tư của 
người dạy và sự tích cực, chủ động của người học. 
 Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu trên, tôi tiến hành thực hiện 
chuyên đề:“Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 
10 THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh” với mong muốn 
đem đến cho các thầy cô giáo và các em học sinh một tài liệu tham khảo hữu 
ích, cũng là góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn ở 
trường phổ thông nói chung.
2. Tên sáng kiến: 
 “Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám trong chương trình Ngữ Văn 10 
THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh”.
3. Tác giả sáng kiến:
 - Họ và tên: Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
 - Địa chỉ: Giáo viên trường THPT Nguyễn Thái Học.
 - Số điện thoại: 0986.229.678.
 - Email: tuesansan@gmail.com.
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
 Áp dụng trong công tác giảng dạy môn Ngữ Văn mà trọng tâm là phân 
môn Đọc Văn của chương trình Ngữ Văn 10 THPT.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 
 Tháng 10 năm 2018.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
 3 Đây là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc 
nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc 
sống mà không có định hướng trước về kết quả và tìm các giải pháp để giải 
quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, 
hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
2.2. Năng lực sáng tạo
 Là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc suy nghĩ và tìm tòi, phát 
hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống; từ đó đề xuất các 
giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề 
xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu, khám 
phá, có cách nói/ viết sáng tạo, độc đáo, hiệu quả.
2.3. Năng lực hợp tác 
 Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân 
và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm 
việc hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ 
tương trợ lẫn nhau để cùng hướng tới một mục tiêu chung.
2.4. Năng lực tự quản bản thân
 Là khả năng của mỗi người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của cá 
nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng này giúp mỗi người luôn chủ động 
và có trách nhiệm với suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng 
người khác và tôn trọng chính bản thân mình.
2.5. Năng lực giao tiếp tiếng Việt 
 Là khả năng sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp và hiệu quả trong tình 
huống giao tiếp. Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được 
thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến 
thức, kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.
2.6. Năng lực thưởng thức văn học
 5 Giáo viên giúp học sinh hình thành được những kiến thức mới thông qua 
các hoạt động khác nhau như: nghiên cứu tài liệu; tiến hành thí nghiệm, thực 
hành; hoạt động trải nghiệm sáng tạo...
 Kết thúc hoạt động này, trên cơ sở kết quả hoạt động học của học sinh thể 
hiện ở các sản phẩm học tập mà học sinh hoàn thành, giáo viên cần chốt kiến 
thức mới để học sinh chính thức ghi nhận và vận dụng.
3.3. Hoạt động luyện tập
 Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến 
thức, kỹ năng vừa lĩnh hội được.
 Trong hoạt động này, học sinh được luyện tập, củng cố các đơn vị kiến 
thức vừa học thông qua áp dụng kiến thức vào giải quyết các câu hỏi/bài tập/tình 
huống/vấn đề nảy sinh trong học tập hay thực tiễn.
 Kết thúc hoạt động này, nếu cần, giáo viên giúp học sinh lĩnh hội cả về tri 
thức lẫn phương pháp, biết cách thức giải quyết vấn đề đặt ra trong “Hoạt động 
khởi động”.
3.4. Hoạt động vận dụng
 Mục đích là giúp học sinh vận dụng được các kiến thức, kỹ năng đã học 
để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề nảy sinh trong cuộc sống gần 
gũi, ở gia đình, địa phương.
 Giáo viên cần gợi ý để học sinh phát hiện những hoạt động, sự kiện, hiện 
tượng nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày, mô tả yêu cầu cần đạt (về sản phẩm) 
để học sinh lưu tâm thực hiện.
 Hoạt động này không cần tổ chức ở trên lớp và không đòi hỏi tất cả học 
sinh phải tham gia. Tuy nhiên, giáo viên cần quan tâm, động viên để có thể thu 
hút nhiều học sinh tham gia một cách tự nguyện; khuyến khích những học sinh 
có sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp.
3.5. Hoạt động tìm tòi mở rộng
 7 Truyện cổ tích loài vật là kiểu truyện mà nhân vật là các con vật trong 
thế giới loài vật. Tác giả dân gian thông qua các con vật, mối quan hệ của các 
con vật để gián tiếp phản ánh xã hội con người, những mối quan hệ của con 
người trong xã hội.
 Truyện cổ tích sinh hoạt là những truyện ra đời khi mâu thuẫn và đấu 
tranh xã hội trở nên gay gắt. Thực tế này đi vào trong truyện cổ tích đã làm cho 
yếu tố hoang đường kì ảo giảm nhẹ và thay vào đó là các yếu tố hiện thực để 
phản ánh sâu sắc những sinh hoạt - đời thường, những quan hệ gia đình và xã 
hội. Thông qua những bức tranh sinh hoạt, những mối quan hệ này nhân dân đã 
gửi gắm những ước mơ về một xã hội công bằng, dân chủ, phê phán cái ác và đề 
cao đạo đức, luân lí.
4.3. Đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích
4.3.1. Nội dung
 Truyện cổ tích phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội: Ra đời và phát 
triển trong xã hội có phân hoá giai cấp, truyện cổ tích rất chú ý tới việc phản ánh 
những mâu thuẫn giai cấp, phản ánh những cuộc đấu tranh xã hội. Đi sâu vào 
mảng đề tài này, truyện cổ tích chú ý khai thác những mâu thuẫn gia đình, tác 
giả dân gian quan niệm gia đình là một xã hội thu nhỏ. Và với cái nhìn như vậy, 
truyện cổ tích đã lí giải những mâu thuẫn gia đình trong mối tương quan với các 
quan hệ xã hội. Chế độ phong kiến đề cao, coi trọng người đàn ông thì trong gia 
đình nảy sinh mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, con trưởng và con út. 
Nếu gia đình là mái ấm của những đứa trẻ có đủ cha, đủ mẹ thì những đứa trẻ 
mồ côi, những đứa trẻ bị bỏ rơi lại bị hắt hủi và bóc lột tàn tệ Truyện cổ tích 
đã dựng nên những bức tranh trái chiều nhau giữa hai cảnh sống của giai cấp 
thống trị và những người thuộc tầng lớp bị trị. Khi phản ánh những mâu thuẫn 
giai cấp, những cuộc đấu tranh xã hội, các tác giả dân gian đã thể hiện một cái 
nhìn đầy cảm thông, thương yêu, nâng đỡ những con người “nhỏ bé” gặp phải 
những cảnh ngộ trớ trêu. Và ẩn sâu trong cái nhìn đó là một tinh thần phản 
 9 ngợi những tình cảm đạo đức xã hội tốt đẹp theo những quan điểm thẩm mĩ của 
mình. Đó là tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt (Sự tích đá Vọng Phu, Sự 
tích con sam), là tình bạn keo sơn thắm thiết (Sự tích chim cuốc, Ba người bạn), 
là tình anh em, vợ chồng gắn bó thắm thiết (Sự tích trầu cau), là tình người nhân 
hậu (Người trồng mía và người đi đường, Tấm Cám – bà hàng nước cưu mang 
che chở cho cô Tấm).
 - Khuynh hướng thứ hai: Truyện cổ tích phê phán, lên án những thứ phi 
đạo đức trong xã hội. Đối với những trường hợp này, nhân dân coi đây là những 
bài học bổ ích để cảnh tỉnh những kẻ ác, cái ác đang hoành hành trong xã hội: 
kết thúc truyện cổ tích người “ở hiền” sẽ “gặp lành”, còn cái ác, kẻ ác bao giờ 
cũng bị trừng trị đích đáng. Không chỉ vậy, nhân dân còn muốn coi truyện cổ 
tích là những liều “thuốc đắng dã tật” hay nhắc nhở, khuyên răn cho những ai đã 
và đang cố tình lãng quên tình nghĩa anh em, vợ chồng, cha mẹ, làng xóm, để 
củng cố vun đắp những tình cảm tốt đẹp trong gia đình, họ hàng, làng 
xóm.Những quan niệm đạo đức thể hiện trong truyện cổ tích được chắt lọc từ 
chính trong kinh nghiệm ứng xử thực tế, đồng thời là những lí tưởng đạo đức mà 
nhân dân muốn xây dựng. Do vậy nó vừa quen lại vừa lạ, vừa gần gũi vừa cao 
cả, vừa đời thường vừa thánh thiện. Nó không chỉ là cái vốn có trong cộng đồng 
mà còn là cái sẽ có, cần có để cho cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn.
4.3.2. Nghệ thuật:
- Cốt truyện và kết cấu:
+ Cốt truyện của truyện cổ tích là sự đan cài của một loạt những mô-típ theo 
một hệ thống nhất định. Do vậy, trong truyện cổ tích hầu như không có những 
cốt truyện độc lập. Cốt truyện của truyện cổ tích thường ngắn gọn, ít tình tiết 
phức tạp. Nó không có những chi tiết rườm rà mà thay vào đó là những công 
thức trần thuật đơn giản, gọn nhẹ. Truyện được kể trung thành theo trục thời 
gian: việc gì xảy ra trước thì kể trước, việc gì xảy ra sau thì kể sau.
+ Truyện cổ tích thường có một số kết cấu như sau:
 11 tinh, cũng có thể là những đồ vật hay vật thể thần kì như gậy thần, khăn thần, 
mâm thần, đàn thần, niêu thần, cũng có thể là những con vật thần kì như ngựa 
thần, chim thần, rắn thần Trong truyện cổ tích Việt Nam, nhân vật thần kì chia 
làm hai loại: những ông Bụt, bà Tiên luôn tốt bụng, giàu lòng thương người luôn 
hiện lên để giúp đỡ những kẻ thấp cổ bé họng còn những phù thuỷ, yêu tinh thì 
luôn độc ác, làm hại người. Khác với các nhân vật thần kì, các đồ vật thần kì và 
con vật thần kì phần lớn không đứng riêng về phe nào cả, ai có nó là làm chủ 
được nó. Ví dụ ngựa thần, chim thần, mâm thần giúp tất cả những ai là chủ nhân 
của chúng. Khi tham gia vào truyện cổ tích, các yếu tố thần kì có nhiều tác dụng 
khác nhau, nhờ có nó mà cốt truyện có thể kéo dài hay rút ngắn theo ý người kể 
chứ không phụ thuộc vào lô-gic thực tế. Nhờ có yếu tố thần kì này mà truyện cổ 
tích hấp dẫn mọi lứa tuổi, mọi thời đại, thể hiện một cách sinh động những ước 
mơ của nhân dân lao động.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng việc dạy và học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông hiện nay
1.1. Dạy học đọc chép
 Hiện tượng dạy học đọc chép trong môn Ngữ Văn rất phổ biến ở các 
trường phổ thông hiện nay. Đọc chép trong giờ chính khóa, chuyên đềThầy cô 
đọc trước, học sinh chép sau, hay thầy cô vừa đọc vừa ghi bảng rồi học sinh 
chép theo. Đối với các bài khái quát về giai đoạn văn học hay khái quát về tác 
gia thầy cô cũng thường tóm tắt rồi đọc cho học sinh chép. Đối với bài “giảng 
văn” thầy cô cũng thường nêu câu hỏi, rồi giảng, sau đó đọc chậm cho các em 
chép một số kết luận, nhận định. Trong cách dạy này học sinh tiếp thu hoàn toàn 
thụ động, một chiều.
1.2. Dạy nhồi nhét
 Dạy nhồi nhét cũng là hiện tượng phổ biến do thầy cô sợ dạy không kĩ, 
ảnh hưởng đến kết quả làm bài thi của học sinh, cho nên dạy từ a đến z, không 
lựa chọn trọng tâm, không có thì giờ nêu vấn đề cho học sinh trao đổi, sợ “cháy” 
 13 cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản. Dạy học 
chú trọng đến cung cấp nội dung tư tưởng của văn bản văn học, ít chú trọng đến 
các phương tiện nghệ thuật. Tóm lại, vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn là hình 
thành kỹ năng.
2.2. Dạy học chưa phù hợp loại thể 
 Nhiều giáo viên còn tiếp cận văn học dân gian bằng thi pháp của văn 
học viết, phân tích các yếu tố nghệ thuật của văn học dân gian như phân tích các 
yếu tố đó của văn học viết. Chỉ phân tích một cách cô lập trên văn bản ngôn từ 
mà không đặt tác phẩm vào trong môi trường văn hóa dân gian, không “sống 
lại” cuộc sống và những sinh hoạt tinh thần muôn màu, muôn vẻ của nhân dân 
lao động nên hiệu quả giờ dạy không cao, tiết dạy không tạo được niềm say mê 
hứng thú cho học sinh. 
2.3. Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực chưa hiệu 
quả
 - Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa vào 
một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, 
ỉ lại chưa thực sự chủ động, mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được.Học 
sinh học thụ động, thiếu sáng tạo; học tập thiếu sự hợp tác giữa học sinh và giáo 
viên, giữa các học sinh với nhau.
 - Phương pháp đóng vai thực sự là phương pháp chưa được giáo viên 
chú trọng. Nếu có thực hiện thì chỉ là dạng bài viết (Chẳng hạn nhập vai Tấm 
kể lại truyện Tấm Cám), việc chuyển thể thành kịch bản, xử lí tình huống giả 
định, trình bày một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy mà học sinh 
ít có cơ hội bày tỏ thái độ, chưa hứng thú, chưa hình thành được các kỹ năng 
và năng lực của người học.
 - Chưa tổ chức được các hình thức dạy học ngoài lớp (như tổ chức hoạt 
động ngoại khóa, trải nghiệm...), gắn các nội dung học tập với việc vận dụng 
vào thực tiễn để giúp học sinh có thêm cơ hội thể hiện năng lực học tập của 
mình. 
 15

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_truyen_co_tich_tam_cam_trong_c.docx