Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 trung học phổ thông
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 trung học phổ thông
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT việc học tập nói chung cũng như việc tìm hiểu, cảm thụ, rung động với tác phẩm văn chương nói riêng. Vì vậy, việc thiết kế những bài dạy sao cho vừa đảm bảo yêu cầu về nội dung vừa giúp HS nhận thức được các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng của cuộc sống mà vẫn tạo hứng thú cho học sinh trong một thời lượng có hạn là vấn đề rất cần thiết đối với người giáo viên Ngữ Văn. Đối với việc dạy học Văn ở các cấp học nói chung và ở trường THPT nói riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng thời học sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi mới về phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện. Văn học là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật, vì vậy việc dạy văn đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng nhiều kĩ năng, trong đó không chỉ là kiến thức mà đòi hỏi cả sự sáng tạo, linh hoạt của người giáo viên ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ càng cho việc lên lớp của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế bài dạy - là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào hiệu quả của tiết học, đặc biệt là trong việc vận dụng và phát huy tối đa công năng của các phương pháp dạy học tích cực trong việc giáo dục KNS cho HS. Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía HS. Cụ thể, tôi đã phát câu hỏi cho học sinh ở ba lớp 10 mà tôi phụ trách giảng dạy, để cho các em phát biểu những cảm nhận của mình về những tác dụng của bài học trong việc rèn luyện KNS. Kết quả cụ thể như sau: STT NỘI DUNG CÂU HỎI KẾT QUẢ - Có 83/132 Theo em, học Văn có giúp em nâng 1 - Có nhưng cao khả năng nhận thức không? 49 không thực tế. Có 67 Theo em, học Văn có giúp em điều Không 4 2 chỉnh hành vi không? Không biết 41 (Không trả lời) 3 Theo em, học Văn có ý nghĩa không? Có 132/132 Từ thực tế dạy học qua nhiều năm và việc rút kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy, cũng là để trao đổi với các đồng nghiệp giảng dạy Ngữ Văn về hướng áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để giáo dục KNS cho HS lớp 10, khối lớp đầu cấp THPT, tôi mạnh dạn trình bày đề tài “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 trung học phổ thông” mà bản thân tôi nhận thấy có hiệu quả trong quá trình thực hiện. II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1. Cơ sở lí luận 1.1. Quan niệm về kĩ năng sống Theo WHO (1993) “Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này”. Theo UNICEF, giáo dục dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào). Như vậy, KNS chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Việc đưa giáo dục KNS vào nhà trường cho thấy mục tiêu của giáo dục trong thời kì mới chú trọng tính hữu dụng, thiết thực của chương trình nhà trường, đồng thời tăng khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới năng động, tích cực, tự tin, hội nhập thành công trong xã hội. 1.2.1. Phương pháp dạy học nhóm Dạy học theo nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng, một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình mà còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên trong nhóm. Hoạt động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp HS rèn luyện các kĩ năng: đảm nhận trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn, giải quyết vấn đề,... 1.2.2. Phương pháp dạy học theo dự án Dạy học theo dự án (DHDA) có nguồn gốc từ châu Âu (thế kỉ 16, ở Ý và Pháp). Đầu thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lí luận cho DHDA (Richard, J.Dewey,.v.v.), và coi đó là PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào người học, nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống coi GV là trung tâm. DHDA là phương pháp trong đó cá nhân hay nhóm người học thiết lập một dự án có nội dung gắn kết với nội dung học tập. Dựa vào tri thức, kinh nghiệm và kĩ năng vốn có, trên cơ sở phân tích thực tiễn thuộc phạm vi học tập, cùng với tài liệu, phương tiện, người học đề xuất ý tưởng, thiết kế dự án, soạn thảo và hoàn chỉnh dự án. Trong DHDA, người học tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án. Vì thế DHDA là một PPDH tích cực, hữu hiệu phát huy được năng lực của HS, đồng thời rất ưu việt trong giáo dục KNS cho các em. Thực hiện DHDA, HS làm việc theo nhóm để giải quyết những vấn đề có thực mang tính thách đố, dựa trên bài học và thường có tính liên môn. Vì vậy, đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội. Các dự án học tập góp phần gắn liền nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội và có thể mang lại những tác động xã Phương pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiến thức, kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học, GV thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kĩ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Việc tạo ra các trò chơi mà học không chỉ giúp HS khắc sâu tri thức, nâng cao nhận thức mà còn tăng cường các KNS cho HS như: biết ứng xử linh hoạt, quan hệ tích cực và hợp tác,... 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1. Phương pháp dạy học nhóm PPDH nhóm rất đa dạng từ cách chọn chủ đề cần thảo luận cho đến cách phân chia nhóm, cho nên GV có thể vận dụng linh hoạt tùy theo từng mục tiêu và đặc trưng của bài học. Trong PPDH nhóm, có rất nhiều cách phân chia nhóm khác nhau. Nếu hoạt động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên tạo các nhóm nhỏ, tối đa 10 HS một nhóm, để HS có điều kiện thảo luận với nhau. Các nhóm này cũng không nên trùng lặp trong suốt quá trình dạy của GV. Việc phân chia nhóm linh hoạt sẽ giúp HS hứng thú hơn, đồng thời tạo cơ hội cho các HS được học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp. Ví dụ như GV có thể chia nhóm theo cách gộp hai bàn kế nhau làm một nhóm, với mô hình lớp học phổ biến trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay thì cách chia này hiệu quả vì HS dễ dàng xoay chuyển để thảo luận cùng nhau; hoặc trong trường hợp vấn đề cần thảo luận không quá khó ta có thể chia nhóm theo đơn vị một bàn là một nhóm; ngoài ra cũng có thể chia nhóm theo ngày sinh, theo sở thích, theo đặc điểm,... hoặc cho HS bốc thăm tạo nhóm theo các chủ đề như: trái cây, các loại hoa, cây cối, tên địa danh thắng cảnh,... Việc lựa chủ đề thảo luận cũng là một nhân tố quyết định đến việc phân chia nhóm. Nếu vấn đề thảo luận lớn, cần dung lượng thời gian nhiều để tìm kiếm thông tin, phân tích, tổng hợp thì GV không nên cho thảo luận trên lớp. tỏ vấn đề và ghi nhận những nội dung thống nhất. Còn nếu các nhóm cùng thảo luận một vấn đề, GV lại phải theo dõi và xem xét sản phẩm của các nhóm trước khi lên lớp. Nếu tất cả các nhóm đều làm tốt thì GV cho tiến hành bốc thăm trình bày. Khi nhóm thứ nhất lên trình bày thì nhiệm vụ của các nhóm còn lại là phải theo dõi, đặt câu hỏi cho nhóm được trình bày nếu thấy vấn đề được trình bày chưa rõ và có thể dùng bài soạn của nhóm mình để trình bày minh họa bổ sung cho những luận điểm mà nhóm đã được trình bày còn thiếu. Nếu kết quả công việc của các nhóm có độ chênh lớn thì GV có thể chọn nhóm nổi trội hơn trình bày. Nếu thời gian cho phép, GV cũng có thể cho các nhóm lần lượt trình bày để HS có sự đối chiếu cụ thể. Tuy nhiên, nếu muốn giờ dạy có hiệu quả hơn thì GV nên theo dõi quá trình hoàn thiện sản phẩm của HS để có những gợi ý cho HS điều chỉnh phù hợp. Dĩ nhiên là để phát huy năng lực sáng tạo của HS, GV chỉ gợi ý, khuyến khích, động viên chứ không nên gò ép HS theo ý của mình. Điều quan trọng là sau khi HS trình bày, thảo luận bao giờ GV cũng phải có phần nhận xét, chốt ý và có những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt để giúp HS hiểu rõ hơn những nội dung chưa được thể hiện, hoặc thể hiện chưa sâu. PPDH nhóm không phải là phương pháp hoàn toàn mới, ngay từ khi Bộ Giáo Dục chủ trương: dạy học tích cực, lấy HS làm trung tâm, PP này đã được sử dụng rộng rãi bởi đây là một PP ưu việt trong việc thúc đẩy HS tự chiếm lĩnh kiến thức. Tuy nhiên có nhiều giờ học, GV chỉ sử dụng PPDH nhóm chiếu lệ, không phát huy được hết tác dụng của PP này. Nghĩa là GV vẫn tổ chức hoạt động nhóm nhưng thực sự các thành viên trong nhóm có hợp tác với nhau không thì GV không kiểm soát. Hoặc có nhiều GV lại quá lạm dụng, mỗi hoạt động đều tổ chức thảo luận nhóm khiến HS rất áp lực, giờ học cũng trở nên nhàm chán. Điều này dẫn tới việc HS đối phó bằng cách đem sách giải ra chép để trả lời. Hơn nữa với tiêu chí lồng ghép giáo dục KNS cho HS bằng chiến thuật mưa dầm thấm lâu thì GV cần phải lựa chọn PP hợp lí để phát huy tác dụng của PP và có những biện pháp để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải hợp tác tham gia và có cơ hội rèn luyện KNS như nhau. PPDH theo dự án là một trong những PP ưu việt trong việc phát huy năng lực tư duy sáng tạo của chủ thể - trò, đồng thời lồng ghép được KNS hợp lí, tự nhiên. Đây là phương pháp dạy học kết hợp có hiệu quả việc sử dụng máy tính với các chương trình dạy học hiện có, giúp các GV phát huy khả năng sáng tạo của mình và phát triển trí tưởng tượng của HS ra ngoài phạm vi học đường, học tập kết hợp với thực hành. Để thực hiện PPDH này, trước hết GV phải chuẩn bị một kế hoạch bài dạy cụ thể, chi tiết. Hồ sơ và các bước thực hiện bao gồm: ❖ Bước 1: - Kế hoạch bài dạy với các mục tiêu học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của chương trình do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo quy định. - Thu thập tư liệu, thiết kế bài trình bày đa phương tiện của GV. - Thiết lập các tiêu chí đánh giá cho bài trình bày đa phương tiện của học sinh. - Bài trình bày, bài báo, tờ giới thiệu, hoặc trang web, của GV hỗ trợ cho bài dạy. ❖ Bước 2: - Hướng dẫn HS cách thiết kế các bài trình bày đa phương tiện: PowerPoint, cách sử dụng phần mềm làm phim: Windows Movie Maker hoặc Corel Video Studio,... - Gợi ý cho HS hình thành ý tưởng, chọn vai. ❖ Bước 3: - Theo dõi quá trình thực hiện dự án của HS. - Gợi ý cho HS điều chỉnh để có sản phẩm tốt hơn. ❖ Bước 4: - Thực hiện giờ dạy: + HS các nhóm trình bày. + GV nhận xét, củng cố nội dung bài học theo từng phần, dùng những câu hỏi gợi mở để HS các nhóm thảo luận đưa ra ý kiến, sử dụng bài trình bày đa phương tiện để chốt ý.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_qua.docx
- Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực tro.pdf