Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh THPT rèn kỹ năng phân tích truyện cười dân gian Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh THPT rèn kỹ năng phân tích truyện cười dân gian Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh THPT rèn kỹ năng phân tích truyện cười dân gian Việt Nam
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Xuân Thọ Mã số:.. (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH THPT RÈN KỸ NĂNG PHÂN TÍCH TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM Người thực hiện: NÔNG THỊ DIỄM TRANG Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn - Lĩnh vực khác................................................... Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác Năm học: 2011-2012 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Truyện cười dân gian Việt Nam ra đời và phát triển cùng với quá trình lao động sản xuất và đời sống nhân dân. Khi tư duy con người tương đối phát triển, họ ý thức được tầm quan trọng của truyện cười. Nó không chỉ đem lại tiếng cười mua vui cho thiên hạ để họ giải tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày lao động tích cực mà truyện cười còn có tác dụng phê phán, châm biếm, mỉa mai các thói hư tật xấu của con người. Có khi nó được xem như là một thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại những bất công của tầng lớp trên. Mà tiếng cười ấy, nó phản ánh sự thông minh, tư duy sâu sắc của người Việt nói chung và những con người có trí tuệ, khả năng giao tiếp nhanh nhạy nói riêng. Ở đó đã có sự kết tinh của một quá trình chọn lọc, khái quát và nó xứng đáng được xem là một tác phẩm hoàn chỉnh, một chỉnh thể thống nhất và toàn vẹn . Đề tài “Phân tích truyện cười dân gian Việt Nam” còn khá mới mẻ, hấp dẫn. Số tác phẩm được học ở trường phổ thông không nhiều. Cho nên tôi chọn đề tài này với mong muốn đi sâu khai thác một số biện pháp gây cười cũng như nó sẽ giúp tôi hiểu thêm về truyện cười dân gian Việt Nam - nó là một yếu tố quan trọng trong thi pháp truyện cười. Đề tài này với hi vọng sẽ góp phần khơi gợi sự chú ý của độc giả, nhằm tăng số lượng cũng như chất lượng cho người đọc về thể loại truyện cười. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu truyện cười đã có một số các công trình của các nhà nghiên cứu như sau: Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn(2006), Văn học dân gian Việt Nam(tái bản), Nxb Giáo dục Hoàng Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy – nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu (1997), Bình giảng truyện dân gian Nguyễn Đức Hiền(1995), 40 truyện Trạng Quỳnh, Nxb Thanh Hóa Lữ Huy Nguyên( ), Truyện cười dân gian Việt Nam- truyện tiếu lâm và các Trạng Chí Vĩnh(2006), Truyện Tiếu lâm Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin Triều Nguyên(2004), Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt, Nxb Giáo dục V TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bình giảng truyện dân gian - Hoàng Tiến Tựu – Nxb Giáo dục – 1997. 2. Văn học dân gian Việt Nam – Đinh Gia Khánh – Nxb Giáo dục – 2002. NGƯỜI THỰC HIỆN Nông Thị Diễm Trang SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đơn vị: THPT Xuân Thọ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Xuân Thọ, ngày 22 tháng 03 năm 2012 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2011 – 2012 Tên sáng kiến kinh nghiệm: GIÚP HỌC SINH THPT RÈN KỸ NĂNG PHÂN TÍCH TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM Họ và tên tác giả: NÔNG THỊ DIỄM TRANG Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường THPT Xuân Thọ Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn: - Phương pháp giáo dục - Lĩnh vực khác: Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong ngành 1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây) - Có giải pháp hoàn toàn mới - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây) - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao VI. NỘI DUNG. 1. Về những đặc trưng của thể loại truyện cười: a. Hệ đề tài: - Truyện cười là những truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cụoc sống, trong hành vi của người đời, nhằm gây ra cái cười. Căn cứ vào tính chất của cái đáng cười (hay hiện tượng đáng cười) và tính chất của cái cười, người ta chia truyện cười thành hai tiểu loại: + Truyện hài hước(hoặc tryện khôi hài) + Truyện châm biếm(hoặc truyện trào phúng) Ranh giới giữa hài hước và châm biếm không phải lúc nào cũng rõ ràng rành mạch. Nhưng việc phân biệt hài hước với châm biếm lại thường được nhấn mạnh như một yêu cầu có tính chất nguyên tắc trong sử dụng cái cười. Về đại thể, có thể phân biệt một cách quy ước là: truyện hài hước chủ yếu nhằm mục đích mua vui tuy cũng có thể có ý nghĩa phê phán, còn truyện châm biếm tuy cũng có tác dụng giải trí nhưng dụng ý là nhằm đả kích. Do đó, truyện hài hước thiên về khai thác những hiện tượng buồn cười ở những hiểu lầm, những lầm lỡ, hớ hênh thường tình hoặc những nhược điểm phổ biến của một lứa tuổi, một nghề nghiệp, một địa phương thậm chí, ở những khuyết tật bẩm sinh (lẽ ra không nên đem ra cười cợt) của người ta, còn truyện châm biếm thường tìm cái đáng cười ở những hiện tượng, những hành vi bộc lộ nét bản chất của cái thói xấu làm ảnh hưởng đến thể thống con người, những thói xấu phản xã hội. - Đề tài của cái cười rất rộng. Người ta tìm cái cười ở mọi lĩnh vực, mọi ngóc ngách của cuộc sống. nhưng người ta có thể nghĩ ra cái cười về đủ mọi chuyện. người ta cũng có thể biến ngay cả những điều nghiêm túc thành chuện cười. Nhưng hệ đề tài của truyện cười dân gian thì có giới hạn. Sau đây là những đề tài tương đối “chụm” của truyện cười dân gian Việt Nam. + Những thói xấu thuộc về bản chất bộc lộ chủ yếu những hành vi buồn cười trong sinh hoạt của các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến: vua chúa, quan lại, sai nha, hào lý, địa chủ, phú ông và các loại “thầy bà”; cả thần thánh; cả sứ của thiên triều. + Những thói xấu thông thường ở những người bình dân bộc lộ ở những hành vi buồn cười trong sinh hoạt của họ. thuyết, truyện cổ tích nhưng truyện cười có tác dụng giáo dục độc đáo: nó mài sắc tư duy duy lí, nó làm giàu óc phê phán, nó giúp trau dồi khả năng sử dụng ngôn ngữ Chúng ta hiểu vì sao những người có tài hài hước, châm biếm thường nhanh nhạy, thông minh, sắc sảo, thú vị trong ứng đối. Xưa kia, ông cha ta đã tỏ ra rất biết cách bày cho trẻ em vui chơi, làm cho trẻ em vui cười bằng những truyện cười thiếu nhi và dạy trẻ qua cách đó. Trước đây, M.Gorki cũng đòi hỏi “phải vạch rõ một cách tài tình và dí dỏm cho trẻ thấy những tật xấu của quá khứ”. Truyện cười dân gian không thuộc kho tàng văn học dân gian thiếu nhi nhưng người ta có thể lựa chọn trong đó một số truyện hài hước và một ít truyện châm biếm nhẹ nhàng cho các em đọc và tập phân tích. Việc này chẳng những khiến cho Chương trình và SGK Văn học trở nên hấp dẫn hơn với các em mà còn giúp cho các em phát triển về nhiều mặt, như đã nói ở trên. c. Thi pháp: Truyện cười là thể loại truyện kể ngắn gọn bậc nhất. Dài cũng chỉ đến 15 – 20 câu. Trung bình khoảng trên dưới 10 câu. Tuy ngắn thế, nhưng cũng là “cả một câu chuyện” có mở đầu, có diễn biến, có kết thúc. Và cũng có nhân vật, lại phần lớn là nhân vật “có nét”, khó quên. Toàn bộ các yếu tố của thi pháp truyện cười, như kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện, đều phục vụ mục đích gây cười. Về kết cấu - Mấu chốt của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cười để người nghe ( người đọc) tự mình phát hiện ra nó mà bật cười. - Vì cái đáng cười là hiện tượng có mâu thuẫn – một loại mâu thuẫn đặc biệt cho nên truyện cười thường được cấu tạo theo dáng dấp một màn kịch: + Giới thiệu hiện tượng có mâu thuẫn tiềm tàng. + Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới điểm đỉnh. + Mâu thuẫn bộc lộ (có thể hiểu là mâu thuẫn được giải quyết). Về nhân vật Nhân vật trong truyện cổ tích có cả một số phận, một cuộc đời. Trong lược đồ tổng quát đầy đủ của truyện cổ tích thần kì do V.Ia.Prôp thiết lập, có mặt 7 nhân vật với 31 hành động, mỗi hành động là diễn tiến của một sự kiện. Nhân vật của truyện cười không có bề dày như thế. Nhân vật truyện cười như vừa thực hiện một bài thể dục hoặc một trò chơi về tư duy, về óc phê phán vậy. - Trên cơ sở yêu cầu làm cho học sinh có ý thức về cái cười của mình, lý giải được nguên do cái cười của mình (tức là trả lời được hai câu hỏi trên ở một chừng mực nào đó), cần hướng dẫn để các em suy nghĩ tiếp về cái đáng cười, về những điều nằm ở phía sau hành vi gây ra cái cười cùng thói xấu mà hành vi đó đã để lộ ra. Ý nghĩa độc đáo của cái cười là ở chỗ nó nâng con người cao hơn hoàn cảnh. Với thói hư tật xấu, khi ta cười nó, ta đứng ở vị thế bên trên nó. Như vậy, cái cười, ở chiều sâu của nó, dường như luôn có một cái gốc là những cảm xúc thấm đượm chất nhân văn – đó là nhiệt tình thống thiết bảo vệ thể thống người, niềm mong muốn con người sống tốt hơn, đẹp hơn. - Phần lớn truyện cười dân gian đã ghi lại được đều thuộc đời cuối Lê – đầu Nguyễn và thời Nguyễn, kể cả buổi Tây sang. Những truyện cười này hợp thành một tập chân dung biếm họa: vua không ra vua (Thôi đừng nói nữa mà tao thèm!, Xin Đại vương đình lại cho một đêm,); quan lại rặt một phường tham nhũng, bất tài (Thần bia trả nghĩa, Quan huyện thanh liêm,); những người làm thầy thiên hạ thì dốt nát và thiếu nhân cách đến mức thảm hại (Tam đại con gà, Bốc thuốc theo sách,); cả những người thuộc tầng lớp bình dâncũng bị nhiễm những cái xấu thường lan tràn trong thời buổi nhố nhăng. Nếu có một cái nhìn bao quát ta có thể nhận thấy một số điều có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều so với bản thân sự phê phán ở từng truyện – đó là tư tưởng phóng túng, là sự đùa cợt có tính chất báng bổ đối với những giáo điều và một số giá trị từng được coi là thiêng liêng của hệ tư tưởng phong kiến, của xã hội phong kiến (như vương quyền và thần quyền). Người giáo viên phổ thông chỉ dạy một ít truyện lẻ (hiện nay là 2 truyện) nhưng cần nắm được ý nghĩa chung của cả bức hí họa về một hình thái xã hội đang biến thành “tấn hài kịch của nó” trên sân khấu lịch sử. Điều này rất có ích cho việc nhận thức định hướng chung của phân tích truyện cười dân gian. b. Phân tích tình tiết hướng vào việc nêu bật cái đáng cười Nghệ thuật gây cười của truyện cười dân gian khá phong phú. Nhưng biện pháp nghệ thuật quan trọng nhất của thể lọai này là cách cấu tạo truyện. Trước hết, công việc phân tích phải hướng vào yêu cầu làm rõ cái đáng cười. Vì cái đáng cười trong truyện cười thường được dàn dựng theo nguyên tắc “tự phơi bày” để người nghe, người đọc “tự phát hiện” qua một tình tiết gồm - Anh sợ vợ luộc vụng đỗ đen; đỗ chín chưa kịp ăn thì vợ về lại phải ra đình ngay để lễ thánh, đành trút nồi đỗ đen vào mũ tế đội lên đầu mà đi ( Đổ mồ hôi mực) Phân đoạn nút có thể được gọi là tình thế gay cấn. Phân tích tình thế gay cấn là gợi cho học sinh điểm lại diễn tiến của sự việc từ tình thế mở đầu đến điểm nút, nhận rõ mâu thuẫn cụ thể ở tình thế gay cấn (ví dụ: anh “áo mới” vớ phải anh “lợn cưới”, chưa kịp khoe đã bị anh này vừa hỏi vừa khoe,) Đến đây, người nghe, người đọc cũng ở vào thế chờ xem đầy kịch tính. (Cần chú ý rằng: ở những truyện gây ra một tràng cười, cười rền, thì “điểm nút” dường như cũng di động, tạo thành một chuỗi “điểm nút”, nhưng “điểm nút” đích thực vẫn ở chỗ kết thúc. Phân đoạn kết thúc: Nhân vật bị đặt vào tình thế có mâu thuẫn, “giải quyết” mâu thuẫn ngay ở “điểm nút” bằng một hành vi, một lời nói bất ngờ làm bộc lộ cái đáng cười: - Anh “áo mới” vớ phải anh “lợn cưới”, bị 1- 0 (tức là đang lăm le khoe, lại bị nghe “nó” khoe), lại ở thế phải trả lời, vậy mà “lật lại được thế cờ”, vẫn trả lời người hỏi nghiêm chỉnh theo dúng phép tắc (dùng kiểu câu có mệnh đề phụ làm trạng ngữ chỉ thời gian), đồng thời “tranh thủ cung cấp được thông tin cần thiết”: “Từ lúc tôi mặc cái áo mới này”(Lợn cưới, áo mới). - Thầy đồ xin thổ công, ba đài được cả ba, hí hửng mừng thầm, cho học sinh gân cổ lên gào “Dủ dỉ là con dù dì”, bị chủ nhà phát hiện, thầy bí quá “lý sự cùn” bằng cách giải thích: “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!” (Tam đại con gà). - Thầy lý xử kiện bằng cách úp bàn tay trái lên bàn tay phải – một kiểu ký hiệu đặc biệt chỉ có những người trong cuộc mới hiểu. Cải đút lót cho thầy ít hơn nên phải chấp nhận thua kiện bởi “Tao biết mày phải nhưng nó lại phải bằng hai mày!”. ( Phải bằng hai mày). - Anh keo kiệt sắp chết đuối, đã ngoi lên không chấp nhận cái giá vớt “năm quan”, nghe tiếng anh bạn “điều chỉnh” giá vớt xuống “ba quan”, lại cố ngoi lên kêu: “ba quan vẫn đắt”(Thà chết còn hơn). - Anh đội mũ tế lót đỗ đen luộc, nước đỗ chảy ròng ròng, ra đình bị người ta hỏi “vì sao?”, thản nhiên trả lời: “Ấy, tôi thường có tính đổ mồ hôi mực thế đấy!”(Đổ mồ hôi mực).
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_thpt_ren_ky_nang_phan_ti.docx
- Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh THPT rèn kỹ năng phân tích truyện cười dân gian Việt Nam.pdf