Sáng kiến kinh nghiệm Khắc phục một số khiếm khuyết khi giải phương trình vô tỉ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Khắc phục một số khiếm khuyết khi giải phương trình vô tỉ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Khắc phục một số khiếm khuyết khi giải phương trình vô tỉ
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC MÃ SKKN TRUNG TÂM GDTX&DN TAM ĐẢO 47.52.01 BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP: CƠ SỞ ; TỈNH: Tên sáng kiến kinh nghiệm: khắc phục một số khiếm khuyết khi giải phương trình vô tỉ Môn/nhóm môn: Toán Tổ bộ môn: KHTN Mã môn: 52 Người thực hiện: Hà Văn Chung Điện thoại: 0974267185 Email: hachung1986@gmail.com Vĩnh Phúc, năm 2016 1 PHẦN I. MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Môn Toán có vị trí quan trọng đặc biệt trong các môn học ở nhà trường phổ thông, nó là cơ sở của nhiều môn học khác. Phương trình là một trong những khái niệm quan trọng của toán học vì toán học nghiên cứu những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới khách quan. Quan hệ bằng nhau, lớn hơn, nhỏ hơn giữa hai đại lượng là một quan hệ số lượng cơ bản. Các nhà toán học cổ điển như: Viet, Điôphăngđã phát triển lý thuyết phương trình thành lý thuyết đại số và số học cổ điển. Phương trình trở thành cơ sở của nội bộ môn toán. Các ngành khoa học khác như: Vật lý, Hóa học, Kỹ thuật tính toánkhông thể thiếu kiến thức về phương trình (ví dụ như: cân bằng phương trình hóa học, các bài toán vật lý về chuyển hóa năng lượng) Khi giải quyết mọi vấn đề trong đời sống thực tế thường dẫn đến giải một bài toán phương trình. Thông qua giải phương trình sẽ củng cố và đào sâu kiến thức về tập hợp, logic toán, các phép biến đổi đồng nhất, hàm sốTừ đó rèn luyện tư duy và khả năng sáng tạo cho học sinh. Trong thực tế dạy học, phương trình được đưa vào phổ thông ngay từ lớp đầu tiên một cách ẩn tàng, lúc đó các em chưa học, chưa biết khái niệm phương trình. Lên lớp 8 phương trình được đưa vào một cách tường minh. Phương trình vô tỷ được đưa vào chương trình bắt đầu từ lớp 9. Trong chương trình Toán THPT, mà cụ thể là phân môn Đại số 10, các em học sinh đã được tiếp cận với phương trình và bất phương trình chứa ẩn dưới dấu căn cũng như cách giải một vài dạng toán cơ bản của phần này. Tuy nhiên trong thực tế các bài toán giải phương trình và bất phương trình chứa ẩn dưới dấu căn rất phong phú và đa dạng. Đặc biệt, trong các đề thi Đại học - Cao đẳng - THCN các em sẽ gặp một lớp các bài toán về phương trình, bất phương trình vô tỉ mà chỉ có một số ít các em biết phương pháp giải nhưng trình bày còn lủng củng, chưa được gọn gàng sáng sủa, thậm chí còn mắc một số sai lầm không đáng có trong khi trình bày. Trong SGK Đại số lớp 10 nâng cao, phần phương trình vô tỷ chỉ là một mục nhỏ trong bài: Một số phương trình và bất phương trình quy về bậc hai của chương IV. Trong SGK Đại số lớp 10 thậm chí phần phương trình vô tỷ chỉ điểm qua rất sơ sài trong bài: Phương trình quy về bậc nhất,bậc hai của chương III. Tóm lại ở các SGK thời lượng dành cho phần này rất ít, các ví dụ và bài tập trong phần này cũng rất hạn chế và chỉ ở dạng cơ bản. Nhưng trong thực tế, để 3 Phân I: Mở đầu gồm lý do chon đề tài, mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Phần II: Nội dung gồm cơ sở lý luận, thực trạng vấn đề và Khắc phục những sai lầm khi học sinh giải phương trình vô tỉ Phần III: Kết luân và kiến nghị PHẦN II. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Nhiệm vụ trọng tâm trong trường THPT, BTTHPT là hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Đối với người thầy, việc giúp học sinh củng cố những kiến thức phổ thông nói chung, đặc biệt là kiến thức thuộc bộ môn Toán học là việc làm rất cần thiết. Muốn học tốt môn Toán, các em phải nắm vững những tri thức khoa học ở môn Toán một cách có hệ thống, biết vận dụng lý thuyết một cách linh hoạt vào từng bài toán cụ thể. Điều đó thể hiện ở việc học đi đôi với hành, đòi hỏi học sinh phải có tư duy logic và suy nghĩ linh hoạt. Vì vậy, ttrong quá trình dạy học giáo viên cần định hướng cho học sinh cách học và nghiên cứu môn Toán một cách có hệ thống, biết cách vận dụng lí thuyết vào bài tập, biết phân dạng bài tập và giải một bài tập với nhiều cách khác nhau. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ. Bài toán giải phương trình và bất phương trình vô tỉ học sinh chỉ được học trong chương trình Đại số 10. Tuy nhiên, thời lượng dành cho phần này này rất ít, học sinh không được tiếp cận nhiều dạng toán khác nhau. Trong SGK Đại số lớp 10 chỉ đưa ra dạng cơ bản: A B . Tuy nhiên, trong thực tế phương trình và bất phương trình vô tỉ rất đa dạng và phong phú. Trong quá trình học Toán ở lớp 11 và 12, khi gặp phải những bài toán đưa về phương trình vô tỉ, đa số học sinh đều lúng túng, thường giải sai và thậm chí không biết cách giải. Đặc biệt, các đề thi Đại học - Cao đẳng các em sẽ gặp phương trình vô tỉ ở nhiều dạng khác nhau chứ không chỉ nằm trong khuôn khổ dạng trên, hơn nữa đối tượng học sinh của tôi đa phần có lực học trung bình và yếu về kiến thức. Vì vậy, tôi nghĩ việc giúp cho các em có kĩ năng tốt, cũng như cung cấp thêm các phương pháp giải phương trình và bất phương trình vô tỉ là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay. Một điều rất quan trọng là trong quá trình giải phương trình và bất phương trình vô tỉ, giáo viên cần phải lưu ý cho học sinh các sai lầm thường mắc phải và phân tích nguyên nhân sai lầm để các em hiểu sâu hơn nhằm có được một bài giải tốt sau này. 5 x2 1 0 (x 1)(x 1) 0 x 1 0 x 1 0 x 1 0 x 1 0 x 1 x 1 x 1 Khi đó (1) (x 1)(x 1) x 1 x 1 Do x 1 nên chia hai vế cho x 1 ta có x 1 1 x 1 Với x 1 ta có x 1 x 1 x 1 1 x 1 do đó phương trình đã cho vô nghiệm. - Sai lầm ở đây là do: + Thói quen thường gặp của học sinh đầu cấp THPT vẫn còn ảnh hưởng bởi việc phân tích một biểu thức thành nhân tử rồi phân chia các trường hợp để xét dấu các nhân tử theo cách làm ở cấp THCS. Sở dĩ ở cấp THCS phải làm vậy vì các em chưa được học định lý về dấu của tam thức bậc hai. + Sau khi phân tích biểu thức ban đầu thành nhân tử, cộng với kiến thức về biến AB 0 A 0 đổi tương đương còn chưa tốt, các em dễ mắc sai lầm sau A 0 B 0 -Biện pháp khắc phục sai lầm như trên: + Giáo viên yêu cầu học sinh ghi nhớ: A 0 A 0 AB 0 B có nghiã AB 0 B có nghiã , tương tự . A 0 A 0 A 0 A 0 B 0 B 0 + Tuy vậy điều vừa nói ở trên là về mặt kiến thức, còn khi thực hành giáo viên dạy cho học sinh giải điều kiện là một bất phương trình bậc hai một cách gọn gàng, dễ làm bằng Định lý về dấu của tam thức bậc hai chứ không phân tích một tam thức bậc hai thành tích hai nhị thức bậc nhất như lời giải sai ở trên. Giáo viên lưu ý thêm cho học sinh: Sau khi giải triệt để điều kiện xác định thì nên dựa vào điều kiện xác định để phân ra các trường hợp nhằm xét dấu các biểu thức dưới căn bậc hai( hoặc một căn bậc chẵn ), khi đó có thể giúp ta rút gọn 2 vế phương trình, đánh giá các vế của phương trình 7 (x 1)2 (x 2) 0 x 2 0 - Biện pháp khắc phục: + Học sinh lực học yếu và trung bình rất hay nhầm rằng: A2 0,A R , vì lẽ đó nên khi gặp một vế có nhân tử dạng A2 các em này thường rút gọn một cách hết sức ngây thơ mà bỏ qua trường hợp A 0 . Do đó khi có một nhân tử là A2 nằm ở một vế của bất phương trình mà ta đang giải để tìm điều kiện xác định thì giáo viên cần cho học sinh phân làm hai trường hợp: A 0 và A 0 A2 0 , để từ đó tìm ra được điều kiện chính xác đối với nhân tử còn lại. Lời giải đúng: Điều kiện để căn thức có nghĩa: x3 3x 2 0 x3 3x 2 0 (x 1)2 (x 2) 0 x 1 0 x 1 x 1 x 1 x 2 x 1 x 1 Thử x 1vào phương trình ta có 2 2 nên x 1 là nghiệm duy nhất. Ở ví dụ trên ta thấy việc giải điều kiện xác định cũng gần như đồng nghĩa với việc giải bất phương trình. Vì vậy ở những dạng bài kiểu này giải đúng điều kiện xác định nghĩa là làm được bài toán. Tiếp tục xoay quanh vấn đề trên, giáo viên lưu ý thêm cho học sinh: Nếu ở điều kiện trên bỏ đi dấu =, ta được bất phương trình: A2 B 0 thì có gì khác trước? Bây giờ thì học sinh sẽ hiểu rằng: Nếu A 0 thì bất phương trình này vô nghiệm, nếu A 0 A2 0 , bất phương trình trở thành: B 0 b) Sai lầm khi đặt điều kiện để biến đổi phương trình +Sai lầm khi giải phương trình dạng f (x) g(x) Trong khi giải phương trình f (x) g(x) học sinh thường biến đổi như sau: f (x) g(x) f (x) g 2 (x) , hoặc đỡ nhầm hơn một chút thì 9 Lời giải đúng: x 0 x 0 x x 2 2 2 x x 2 x x 2 0 x 0 x 1 x 2 x 2 Vậy phương trình đã cho có nghiệm là : x 2 . c) Sai lầm khi giải phương trình vô tỷ chứa căn bậc lẻ. Các bài toán giải phương trình vô tỷ chứa căn bậc lẻ chủ yếu gặp dưới dạng căn bậc 3. Đối với học sinh yếu, trung bình: Giáo viên lưu ý cho học sinh mọi biểu thức có nghĩa đều tồn tại căn bậc lẻ, nhớ rằng không được nhầm lẫn mà buộc điều kiện biểu thức nằm dưới dấu căn bậc lẻ phải không âm. Có lẽ phương trình chứa căn bậc lẻ thường gặp hoặc thường biến đổi rồi đưa được về phương trình dạng 3 f (x) 3 g(x) 3 h(x) (1) , gặp phương trình này học sinh thường biến đổi như sau (1) f (x) g(x) 3 3 f (x)g(x)( 3 f (x) 3 g(x)) h(x) (2) Sau khi giải xong phương trình (2) học sinh kết luận luôn nghiệm của (2) là nghiệm của (1). -Các sai lầm mắc phải: + Học sinh luôn quan niệm căn bậc lẻ thì không có điều kiện xác định nhiều và phức tạp như căn bậc chẵn, thậm chí điều kiện xác định là mọi giá trị x R nên cứ thoải mái biến đổi, thay thế ta sẽ được các phương trình tương đương với phương trình ban đầu. + Ở bài dạng toán trên sai lầm của học sinh là coi rằng (1) và (2) là hai phương trình tương đương nhưng thực ra hai phương trình đó không tương đương vì ta đã thay thế 3 h(x) bởi 3 f (x) 3 g(x) . -Biện pháp khắc phục Thực tế cho thấy ngay cả học sinh khá cũng có thể mắc phải sai lầm này. Do đó để khắc phục sai lầm cho học sinh, giáo viên nhấn mạnh rằng (1) và (2) 11 khi giải phương trình dạng f (x) g(x) ( bằng phương pháp bình phương hai vế). Ta xét một ví dụ cụ thể: Ví dụ 5: Giải phương trình x 3x 1 2x 1 Lời giải sai của học sinh: x 0 x 3x 1 2x 1(1) 3x 1 0 2 ( x 3x 1) 2x 1 x 0 1 x 0 x 3 x 1 x(3x 1) 4x 1 2 x(3x 1) 2x 1 x 0 x 0 x 1 0 x 1 2 2 2 x 2x 1 3x x 2x x 1 0 x 0 x 1 x 1 1 x 2 Vậy phương trình đã cho có nghiệm: x 1. Có thể thấy ngay x 1 không phải là nghiệm của phương trình. -Học sinh này phạm những sai lầm sau: Sở dĩ em học sinh này chỉ đặt 2 điều kiện x 0 , 3x+1 0 vì quan niệm rằng 2x 1 ( x 3x 1)2 sẽ dẫn tới 2x-1 không âm, nên không cần đặt điều kiện 2x- 1 0 nữa. Thậm chí nếu đặt thêm điều kiện 2x-1 0 thì vẫn sai vì điều kiện này 1 kết hợp với 2 điều kiện trên sẽ cho ta: x , điều kiện này dẫn tới ta không loại 2 được nghiệm x =1. Sai lầm nằm ở chỗ chưa biết 2 vế có cùng dấu hay không mà đã bình 1 phương, cụ thể là nếu được thoả mãn điều kiện x thì vế phải không âm, còn 2 x 3x 1 thì chưa xác định dấu. 13
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_khac_phuc_mot_so_khiem_khuyet_khi_giai.doc