Sáng kiến kinh nghiệm Một vài phương pháp dạy học văn thuyết minh ở lớp 10 theo hướng phát triển năng lực học sinh

docx 51 trang sk10 18/09/2024 760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài phương pháp dạy học văn thuyết minh ở lớp 10 theo hướng phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài phương pháp dạy học văn thuyết minh ở lớp 10 theo hướng phát triển năng lực học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài phương pháp dạy học văn thuyết minh ở lớp 10 theo hướng phát triển năng lực học sinh
 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 Việc dạy học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông luôn luôn thu hút sự quan 
tâm lớn của xã hội. Ngữ Văn là một trong những môn học chiếm vị trí quan trọng 
trong chương trình giáo dục quốc dân và phát triển dân trí nước nhà. Tuy vậy, thực 
tế dạy học, chất lượng của bộ môn, chất lượng thi cử hiện nay vẫn còn nhiều điều 
đáng quan tâm. Không ít giáo viên còn bỡ ngỡ, lúng túng khi đối diện với việc đổi 
mới phương pháp giảng dạy, đổi mới ra đề, kiểm tra đánh giá. 
 Bộ môn văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người 
hóa thân và thăng hoa cảm xúc. Khi tiếp nhận văn học tức là đọc hiểu để biến văn 
bản thành một thế giới hình tượng sinh động và nắm bắt được ý nghĩa của nó. Học 
sinh không những hiểu mà còn cảm được văn chương, nhất là những văn bản nghệ 
thuật có giá trị thẩm mĩ cao đã được tuyển chọn đưa vào giảng dạy ở chương trình 
Ngữ Văn THPT. Bên cạnh đó, học sinh còn biết vận dụng những kiến thức đã học 
để xử lí các tình huống thực tế đời sống vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. 
Để làm được điều này, đòi hỏi khả năng nhiều mặt của người dạy trong việc giúp 
người học khám phá thế giới văn học bao la, rộng lớn; lĩnh hội và tạo lập được tất 
cả các thể loại văn bản, trong đó có văn thuyết minh.
 Việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng sáng tạo, đem lại sự tích 
cực và tạo hứng thú cho học sinh là phù hợp với một trong những nguyên tắc của 
lý luận dạy học hiện đại: Học theo cách khám phá. Giáo viên phải tạo được những 
giờ dạy thú vị, đem lại sự hứng thú cho học sinh không chỉ trong những giờ về văn 
học sử, đọc hiểu, tiếng Việt mà ngay cả giờ Tập làm văn.
 Ở trong chương trình lớp 10, ngoài văn nghị luận thường gặp, có một kiểu 
bài nữa là văn thuyết minh. Văn thuyết minh là loại văn bản có nhiều ứng dụng 
trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Hiểu một văn bản thuyết minh để rồi từ đó 
hình thành kĩ năng tạo lập một văn bản tương tự là điều mà người giáo viên cần 
thiết phải định hướng cho học sinh làm được. Tuy vậy, kiểu bài này cả giáo viên và 
học sinh đều gặp không ít sự khó khăn khi trình bày mặc dù bài học đã có một số 
tiết dạy khá kỹ như: Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh; lập dàn ý bài 
văn thuyết minh.. Để tìm hiểu một văn bản thuyết minh hay làm tốt một bài văn 
thuyết minh đòi hỏi học sinh cần phải có một sự hiểu biết nhất định, phải có sự tìm 
tòi thông tin, thống kê số liệu và sự kiện một cách khách quan, cụ thể. Hơn nữa, từ 
bài thuyết minh theo cách viết đến bài thuyết minh nói được trình bày trước tập thể 
cũng là một khó khăn không nhỏ.
 Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Một vài phương pháp dạy học văn thuyết minh 
ở lớp 10 theo hướng phát triển năng lực học sinh” nhằm góp một phần nhỏ mở ra 
những con đường tiếp cận kiểu bài văn thuyết minh ở trường THPT.
II. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI
 1 cách hình thành các kĩ năng tiếp nhận lý thuyết, cách thu thập tài liệu qua mạng 
Internet, cách tiếp cận kiến thức thực tế thông qua hoạt động trải nghiệm hay cách 
để các em luyện nói trong giờ học văn thuyết minh. 
 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi 
 Hiện nay, phương pháp đổi mới cách học theo hướng học sinh phải tích cực, 
phải làm việc là một phương pháp tốt. Nó giúp cho học sinh tìm tòi sáng tạo để 
nắm vững kiến thức. Chính vì vậy, phương pháp này đã được sự ủng hộ của nhiều 
người.
 3 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện 
Giáo dục và Đào tạo xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và 
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng 
kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ một chiều, ghi nhớ máy 
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người 
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực.” 
 Như vậy, giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ 
chương trình giáo dục “tiếp cận nội dung” sang “tiếp cận năng lực” của người học. 
Để thực hiện được điều này đòi hỏi phải chuyển đổi từ phương pháp dạy học theo 
lối “truyền thụ một chiều” truyền thống sang lối dạy học tích cực, dạy cách vận 
dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh. 
 Đó là sự phát triển tinh thần của Luật giáo dục phổ thông. Điều 28.2, Luật 
giáo dục phổ thông qui định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính 
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng 
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; 
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem 
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” Còn ở Điều 27.1, xác định rõ: “Mục 
tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí 
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính 
năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục 
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
 Như vậy, quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng về giáo dục là đã rõ ràng, 
trở thành kim chỉ nam để định hướng đổi mới giáo dục toàn diện, trong đó, môn 
Ngữ Văn góp phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách, trí tuệ, đạo đức và 
tài năng cho học sinh. Môn Ngữ Văn nói chung, Ngữ Văn 10 nói riêng trên tinh 
thần đổi mới sẽ tiếp tục mở ra hướng giáo dục theo đánh giá năng lực, phát huy 
tính sáng tạo của học sinh. Một trong những nội dung không kém phần quan trọng 
thuộc Ngữ Văn 10 là kiểu bài văn thuyết minh, góp phần thực hiện việc đưa văn 
học gắn liền với đời sống vô cùng phong phú và sinh động.
 Theo tài liệu Dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng 
lực học sinh của Vụ Giáo dục Trung học, một số phẩm chất, năng lực cần được cần 
hình thành, phát triển ở học sinh THPT, đó là:
 * Về phẩm chất:
 1. Yêu gia đình, quê hương, đất nước.
 2. Nhân ái, khoan dung
 3. Trung thực, tự trọng, chí công vô tư
 4. Tự lập, tự tin, tự chủ và có tinh thần vượt khó
 5. Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường 
tự nhiên.
 * Về năng lực:
 1. Năng lực tự học
 5 Học sinh đã được học kiểu bài văn thuyết minh ở chương trình lớp 8 nên 
việc hướng dẫn học sinh học kiểu bài này không còn mới mẻ, xa lạ.
 Nhiều kênh thông tin hiện đại tạo điều kiện giúp giáo viên dễ dàng chọn lọc 
kiến thức làm tư liệu để giờ dạy trở nên phong phú, sinh động.
 Học sinh có nhiều nguồn thông tin (Tài liệu nghiên cứu, sách báo, mạng 
Internet, trải nghiệm thực tế...).
 b. Khó khăn
 Thứ nhất, phân phối chương trình còn nặng về lí thuyết, ít giờ thực hành 
luyện tập. Trong phân phối chương trình (kể cả giảm tải), phần văn thuyết minh 
chủ yếu tập trung ở học kỳ II gồm 5 tiết vừa lí thuyết vừa luyện tập, cụ thể:
 HỌC KỲ II
 Tuần Tiết số Tên bài
 20 55 Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh
 56 Lập dàn ý bài văn thuyết minh
 57 Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh
 21 58 Phương pháp thuyết minh
 59 Luyện tập viết đoạn văn thuyết minh. Kiểm tra 15 
 phút, bài số 4 - Tự luận
 60 Tóm tắt văn bản thuyết minh
 23 61 Khái quát lịch sử Tiếng Việt. Bài làm văn số 5 (HS làm ở 
 nhà): Viết bài văn thuyết minh
 62 Những yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt
 63 Những yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt
 Thứ hai, muốn làm tốt bài văn thuyết minh, học sinh phải được trải nghiệm 
sáng tạo, tức là được tham quan tìm hiểu thực tế. Thế nhưng trong tình hình trường 
đông lớp, học sinh nhiều thì không đủ điều kiện kinh phí để tổ chức cho tất cả các 
em đi tham quan dã ngoại, gắn liền với thực tế cuộc sống để có thêm vốn sống, vốn 
hiểu biết.
2.2. Đối với người học
 Mặc dù đã được làm quen với kiểu bài văn thuyết minh từ năm học lớp 8 
cấp THCS nhưng các em vẫn còn nhiều lúng túng vì đã trải qua một năm học lớp 
9, lên lớp 10 đã có độ lùi thời gian, nhiều em đã quên kiến thức, thậm chí không 
biết đã học hay chưa. Nếu biết, các em chỉ biết tên gọi là văn thuyết minh, còn nội 
dung, phương pháp thì lại không còn nhớ.
 7 thuyết minh giúp người đọc, người nghe hiểu rõ những đặc điểm, tính chất  của 
đối tượng thuyết minh. Mỗi đối tượng có đặc điểm, cấu tạo, đặc trưng riêng để 
người thuyết minh có những cách trình bày, thuyết minh riêng. Văn thuyết minh 
vừa phải thỏa mãn yêu cầu của văn bản nói chung như: chính xác, nhất quán, mạch 
lạc, liên kết chặt chẽ; vừa có những đặc điểm, tính khách quan, tính chính xác, tính 
hấp dẫn. 
 Văn bản thuyết minh cần đạt được các yêu cầu: tri thức cung cấp phải khách 
quan, xác thực và hữu ích đối với con người; trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ 
và hấp dẫn.
 Người viết văn thuyết minh phải cung cấp cho người đọc những tri thức có 
 thực về đối tượng. Người viết không vì tình cảm riêng, lợi ích riêng mà hư cấu, bịa 
 đặt, tưởng tượng ra những điều không có ở đối tượng được giới thiệu. Ngôn ngữ 
 bài thuyết minh phải chính xác, giản dị, gần gũi với đời sống và phù hợp với người 
 đọc cũng như đối tượng được giới thiệu.
2. Một số giải pháp thực hiện đề tài
2.1. Giải pháp 1: Nhóm giải pháp dạy lý thuyết
2.1.1.Xây dựng tính chuẩn xác cho văn bản thuyết minh 
 a. Mục đích yêu cầu: Yêu cầu đầu tiên giáo viên đặt ra với học sinh là tính chuẩn 
 xác. Bởi vì, thuyết minh không chuẩn xác chẳng những vô ích mà còn có hại cho 
 nhận thức của con người. Muốn thế, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh tìm 
 đọc tài liệu, biết quan sát sự vật, hiện tượng cuộc sống, biết hệ thống hoá kiến thức 
 để tập trung chủ đề thuyết minh.
b. Năng lực, phẩm chất cần đạt: 
 - Năng lực: Năng lực tự học, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng công nghệ thông 
 tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ...
 - Phẩm chất: Yêu gia đình, yêu quê hương, đất nước, trung thực, tự trọng, tự lập, 
 tự tin, tinh thần vượt khó, có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước...
c. Biện pháp thực hiện : 
 Bài văn thuyết minh phải đảm bảo sự chính xác về tri thức khoa học, mang 
 tính khách quan, hoàn toàn khác với văn biểu cảm nặng về cảm xúc chủ quan. Ví 
 dụ khi thuyết minh về Làng Sen quê Bác ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, các em 
 phải nắm vững về lịch sử, địa lý, Cụ thể như: Nghệ An được xem là vùng đất ” 
 địa linh nhân kiệt” nơi từng sinh ra nhiều bậc kỳ tài trong lịch sử và cũng là vùng 
 đất luôn gắn liền với vận mệnh tổ quốc. Đặc biệt nơi đây chính là quê hương của 
 Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta . Làng Sen thuộc 
 xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - mảnh đất miền Trung đầy nắng gió. 
 Từ thành phố Vinh đi theo quốc lộ 46 khoảng 15km là tới làng Sen, quê Bác. Cũng 
 chính nơi đây, hơn nửa thế kỷ trôi qua, không biết có bao nhiêu bước chân của 
 những người con quê hương Việt Nam tìm đến với niềm thành kính và sự xúc động 
 9 linh báo mộng cho trưởng làng tập trung dân làng bên đầm, Ngài sẽ trao báu vật 
của trời để làng tổ chức lễ hội. Sáng ra, khi dân làng đã tụ hội đông đủ bỗng thấy 
giữa đầm nổi lên chiếc Vạc to như một gian nhà, trong vạc to có 10 vạc nhỏ và rất 
nhiều âu đĩa trong đó. Dân làng tưng bừng tổ chức lễ hội. Sau 3 ngày mở tiệc, mở 
hội dân làng làm lễ tạ ơn và trả báo vật về cho thần linh, đang sụp lạy thì Vạc 
đồng từ từ trôi ra giữa đầm rồi chìm xuống.
 Từ đó, làng đặt tên là đầm Vạc, và đặt tên làng là làng Vạc. Truyền thuyết 
về làng Vạc kết nối với truyền thuyết về chuyện con gái già làng Xiêng Lằm tên là 
Y La, đã hiến thân, huy sinh tính mạng cao cả để cứu dân làng khỏi họa xâm lăng 
tàn ác của lũ giặc. Máu của nàng Y La, đã đổ tạo thành những vùng đất đỏ Phủ 
Quỳ giờ. Cả chuyện truyền thuyết Vạc đồng cũng như nàng Y La là cách diễn giải 
truyền miệng của người dân để nói về vùng đất linh thiêng, cùng như chiều sâu 
văn hóa lịch sử nhưng đối với làng Vạc giá trị lịch sử hiện hữu quan trọng nhất đó 
là kết quả của 5 lần khai quật đã phát hiện 347 ngôi mộ đã thu được 1.228 hiện 
vật, trong đó đồ đồng là 665 chiếc. (Nguồn Báo Nghệ An)
2.1.3.Vận dụng tổng hợp các phương thức biểu đạt
a. Mục đích yêu cầu: Một bài văn thuyết minh cần vận dụng tổng hợp các phương 
thức biểu đạt sẽ giúp người đọc, người nghe hiểu chi tiết, cụ thể vấn đề cần đề 
cập.Văn thuyết minh sinh ra chủ yếu để cung cấp những tri thức khoa học, khách 
quan về con người, sự vật hay hiện tượng. Để con người, sự vật hay hiện tượng 
hiện lên trước mắt người đọc (người nghe) một cách rõ ràng, chính xác, người 
thuyết minh phải dùng nhiều yếu tố khác.
b. Năng lực, phẩm chất cần đạt
- Năng lực: Năng lực tự học, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng công 
nghệ thông tin, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, 
năng lực tư duy....
- Phẩm chất: Tự lập, tự tin, tự chủ và có tinh thần vượt khó, nhân ái, khoan dung, 
yêu gia đình, quê hương, đất nước, có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất 
nước, nhân loại và môi trường tự nhiên...
c. Biện pháp thực hiện 
- Hướng dẫn học sinh vận dụng tổng hợp các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, 
biểu cảm, nghị luận và lấy phương thức thuyết minh làm phương thức đóng vai trò 
chủ đạo trong bài văn thuyết minh.
- Tự sự nhằm làm rõ những tri thức về con người, địa điểm, sự vật, hiện tượng, để 
người đọc hiểu rõ hơn về thời đại, nhân vật hay cảnh vật.
- Dùng yếu tố miêu tả để cung cấp các tri thức cần thiết nhằm hiểu rõ đối tượng 
miêu tả hơn.
 11

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_phuong_phap_day_hoc_van_thuyet.docx