Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy hoạt động gợi động cơ trong giảng dạy môn Toán lớp 10
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy hoạt động gợi động cơ trong giảng dạy môn Toán lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy hoạt động gợi động cơ trong giảng dạy môn Toán lớp 10
BM 01-Bia SKKN SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị TRƯỜNG BỔ TÚC VĂN HÓA TỈNH Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT HUY HOẠT ĐỘNG GỢI ĐỘNG CƠ MỞ ĐẦU TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN LỚP 10 Người thực hiện: NGUYỄN THỊ HUYỀN Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn: TOÁN (Ghi rõ tên bộ môn) - Lĩnh vực khác: ....................................................... (Ghi rõ tên lĩnh vực) Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN Mô hình Đĩa CD (DVD) Phim ảnh Hiện vật khác (các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm) Năm học: 2014-2015 BM03-TMSKKN Tên SKKN: PHÁT HUY HOẠT ĐỘNG GỢI ĐỘNG CƠ MỞ ĐẦU TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN LỚP 10 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Toán học là môn Tự nhiên mà đặc thù của bộ môn này có phần khô khan và cứng nhắc nên khó đối với một bộ phận học sinh. Thậm chí nhiều em còn cảm thấy “sợ” mỗi khi buổi học nào đó có tiết Toán. Từ khi còn là một giáo viên trẻ mới ra trường, chập chững bước vào nghề dạy học, không ít lần học sinh hỏi tôi “ Học Toán để làm gì thế cô? Thuộc bao nhiêu công thức lượng giác, giải bao nhiêu phương trình rồi cũng thế thôi, sau này em đâu cần nhớ tới! ”. Vì thế tôi luôn trăn trở mỗi khi soạn giáo án trước khi lên lớp là làm thế nào để bài học hấp dẫn, thú vị, dễ hiểu và quan trọng là các em học sinh cần biết được mính sắp được học cái gì, học để làm gì. Nhà khoa học Usinki (1824 – 1870) đã từng nói rằng: “ Anh sẽ nói gì về người kiến trúc sư khi ông ta khởi công xây dựng một ngôi nhà mới mà ông ta không thể trả lời được cho anh rằng, đó là một ngôi đền để thờ thần Chân lý, Tình yêu hay Lẽ phải; hay chỉ là một ngôi nhà để sống tiện nghi; hay một cái cổng thành đẹp đẽ lộng lẫy một cách vô ích để những người đi qua đường chiêm ngưỡng; hay một khách sạn mạ vàng để vơ vét tiền của những người đi du lịch tiêu xài hoang phí, hay là một cái nhà cuối cùng – một cái kho để chứa đồ cũ - mà trên đời này không ai cần đến cả? Anh cũng sẽ nói những điều tương tự với nhà giáo dục khi ông ta chưa xác định được rõ ràng và chính xác cho anh về mục đích của hoạt động giáo dục của ông ta” . Qua thực tế dạy học và quan sát tôi nhận thấy học sinh không thích môn Toán phần lớn do các em mất căn bản từ lớp dưới, không theo kịp chương trình đang học; học sinh ngồi học trong lớp không tập trung theo dõi bài giảng vì không thấy sự cần thiết của bài học đó và vì chưa có động lực học tập. Đối với học viên của hệ Giáo dục thường xuyên thì vấn đề đó càng khó khăn hơn nữa vì trình độ tiếp thu của các em thấp hơn rất nhiều so với học sinh phổ thông. Làm thế nào để học sinh quan tâm đến bài học ngay từ phần mở đầu, trả lời cho các em câu hỏi học để làm gì là cả một nghệ thuật soạn giáo án của người giáo viên. Vì thế tôi chọn đề tài “ Phát huy hoạt động gợi động cơ trong giảng dạy môn Toán lớp 10 ”. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: Động cơ hoạt động là một trong các thành tố cơ sở của phương pháp dạy học môn Toán. Việc học tập tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo đòi hỏi học sinh phải có ý thức về những mục đích đặt ra và tạo được động lực bên trong thúc đẩy bản thân họ hoạt động để đạt được được mục đích đó. Và gợi động cơ là nhằm làm cho những mục đích sư phạm biến thành những mục đích của cá nhân học sinh, có mục đích cụ thể học sinh sẽ định hướng đúng đắn cho hành vi của mình. Có nhiều loại gợi động cơ Để phát huy tác dụng kích thích, thúc đẩy hoạt động học tập của học sinh cần phối hợp nhiều cách gợi động cơ khác nhau nhưng nên chú ý đến xu hướng phát triển của cá nhân học sinh. Sách giáo khoa môn Toán được biên soạn chú trọng sự chính xác khoa học; đảm bảo giữa các yếu tố : hiện đại ( xác suất – thống kê), hội nhập ( máy tính cầm tay, số phức), liên môn ( đảm bảo học viên được chuẩn bị kiến thức toán để học các môn khác). Với đặc điểm của người học chương trình GDTX cấp THPT, ngoài học viên là thanh niên ở tuổi phổ thông, người học còn đa dạng về độ tuổi, hoàn cảnh gia đình, khả năng hiểu biết và vốn kinh nghiệm sống. Các nghiên cứu về giáo dục học cho thấy, một trong những nguyên nhân góp phần tạo ra một quá trình học có hiệu quả cho học viên tiếp thu tốt nhất là bài học được mô tả gần với thực tế. Dạy cho đối tượng này là nhiệm vụ khá khó khăn, nói về cái gì đó quá khó, mang tính hàn lâm thì các em không hiểu được. Vì thế mà giáo viên cần nhiều sự trợ giúp và tôi chọn trợ giúp của lịch sử của toán học, kiến thức về các môn khoa học có liên quan, để làm cho kiến thức mà ta truyền đạt bớt khô khan, biến toán học thành một môn học hấp dẫn, thích thú đối với học sinh, làm cho các giờ toán trở nên sôi nổi, hứng thú hơn với các em. Với chương trình Toán 10 dạy cho đối tượng học viên hệ GDTX, điều này thật sự cần thiết, vì các em mới bước từ trường THCS lên THPT, kiến thức mỗi bài nhiều và khó hơn, cách học cũng phải thay đổi sao cho phù hợp. Thực hiện hoạt động gợi động cơ khi bắt đầu bài học của một chương hay một bài, tôi chọn hướng đan xen với cách nói đơn giản là giới thiệu nội dung các em học trong chương, vận dụng kiến thức đó để làm gì là các câu chuyện về những nhà Toán học nổi tiếng mà cuộc đời của họ có thể sẽ mang lại cho các em những bài học thú vị về giáo dục nhân cách và lối sống. 2. Minh chứng quá trình thực nghiệm giải pháp: Ví dụ với Chương I của Đại số 10, tôi thực hiện như sau: “ Chương I Mệnh đề - Tập hợp sẽ cung cấp cho chúng ta những kiến thức mở đầu về logic toán và tập hợp. Các khái niệm về mệnh đề và các phép toán về tập hợp sẽ giúp các em diễn đạt nội dung toán học thêm rõ ràng và chính xác, đồng thời giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về suy luận và chứng minh trong toán học. Bởi vậy chương này có ý nghĩa quan trọng với việc học tập môn toán.” Với bài học về Tập Hợp trong Chương I , tôi lồng ghép một câu chuyện về nhà toán học mà cuộc đời của ông mãi là tấm gương sáng về nghị lực sống : “Tập hợp là một trong những khái niệm cơ bản của toán học mà các em đã làm quen ở lớp dưới. Hôm nay trước khi vào bài học cô muốn kể cho các em nghe một câu chuyện về một nhà toán học. Ông là người sáng lập nên lí thuyết tập hợp, tên ông là Ghê-ooc Canto (1845-1918) – nhà toán học Đan Mạch gốc Nga – sinh ra trong một gia đình có bố là một thương gia, mẹ là một nghệ sĩ. Ba mẹ muốn ông trở thành một kĩ sư vì nghề này kiếm được nhiều tiền hơn nên đã có những hành động ngăn cấm ông sẽ tìm thấy các ứng dụng ngay trong các hoạt động của trường học và cuộc sống hàng ngày.” “Như mọi khoa học khác, Lượng Giác phát sinh từ nhu cầu của đời sống con người: sự phát triển của ngành hàng hải đòi hỏi phải biết xác định vị trí của tàu bè ngoài biển khơi theo mặt trời lúc ban ngày và theo vì sao lúc ban đêm, cuộc sống xã hội với các hoạt động sản xuất đòi hỏi đo đạc ruộng đất, thiết lập bản đồ, Và trong lich sử Toán học, người có công xây dựng lí thuyết về lượng giác là nhà toán học Lê- ô-na Ơ-le, người Thụy sĩ. Cuộc đời ông là một tấm gương cho cả nhân loại về sự say mê và cần cù trong công việc. Ông không từ chối bất kì việc gì dù là khó đến đâu. Suốt 15 năm cuối đời mình mặc dù bị mù cả hai mắt, ông vấn tiếp tục lao động sáng tạo, không ngừng cống hiến xuất sắc cho khoa học. Để ghi nhận công lao ông đã viết trên 800 công trình về toán học, thiên văn và Địa lí, tên của ông đã được đặt cho một miệng núi lửa ở phần trông thấy của Mặt trăng .” Phần Hình học 10, chương đầu tiên là một khái niệm hoàn toàn mới và có phần khó hiểu với học viên, tôi chọn cách giới thiệu tổng quát nhất những gì các em sẽ được học, sự liên kết với các môn khoa học khác và ứng dụng của Vec tơ: “ Ở cấp THCS, các em đã biết một số kiến thức về hình học phẳng. Chương trình hình học 10 nhằm bổ sung thêm và hoàn thiện một số kiến thức của bộ môn hình học. Trong chương đầu tiên, các em sẽ được tiếp cận với một khái niệm hoàn toàn mới, đó là vec tơ và các phép toán về vec tơ. Bằng công cụ vec tơ, các em sẽ tập làm quen với việc nghiên cứu hình học bằng một phương pháp khác, gọn gàng, có hiệu quả và mang tầm khái quát cao. Ngoài ra vec tơ còn được dùng để biểu diễn các đại lượng có hướng trong môn Vật lí như lực, vận tốc và gia tốc làm cho Toán học gắn với đời sống thực tế và sản xuất đồng thời phục vụ các môn học khác. Các khái niệm về vec tơ và các phép toán sẽ giúp các em tiếp cận với những khái niệm mới của toán học hiện đại, ví dụ như lần đầu tiên các em được thực hiện phép toán trên các đối tượng không phải là số nhưng lại có tính chất tương tự số. Các kiến thức về tọa độ trong chương này là cơ sở để đưa vào một phương pháp nghiên cứu mới đó là dùng đại số để nghiên cứu hình học. Học chương này các em phải hiểu được vec tơ là gì, thế nào là tổng, hiệu của hai vec tơ, tích của một vec tơ và một số. Những kiến thức này rất quan trọng vì chúng là cơ sở để học môn hình học của ba lớp 10, 11, 12. ” Với Chương II Hình học 10, đan xen việc giới thiệu nội dung chương, ứng dụng kiến thức trong thực tế là một câu chuyện vui về một nhà Toán học: “ Trong chương I, các em đã làm quen với các phép toán tổng, hiệu của hai vec tơ, tích của một vec tơ và một số. Tiếp nối chương II sẽ giới thiệu cho chúng ta thêm một phép toán nữa là tích vô hướng của hai vec tơ, tức là phép nhân vô hướng hai vec tơ với nhau, kết quả của phép nhân này là một số nên người ta gọi tích đó là tích vô hướng. Nội dung của chương trình bày các tính chất cơ bản của tích vô hướng và những ứng dụng của chúng, đặc biệt là những hệ thức quan trọng trong tam giác: định lí côsin, định lí sin, công thức đường trung tuyến, công thức tính diện tích tam giác,Và các em sẽ được vận dụng chúng để giải một số bài toán hình học và tìm dụ như bài toán chứng minh một đường thẳng là tiếp tuyến của một đường tròn mà các em từng làm ở lớp 9 tương đối khó với chúng ta khi một số bạn nhìn hình vẽ hoài mà cũng không tìm ra cách giải thì nay bằng phương pháp mới này các bạn chỉ cần tính toán trên những công thức và thậm chí không cần phải vẽ hình nữa.” Việc thực hiện gợi động cơ cho mỗi bài học thực sự đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư kĩ lưỡng cho giáo án mỗi khi lên lớp của mình, bản thân mỗi thầy cô phải thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn không chỉ phạm vi môn Toán mà còn các môn khoa học khác có liên quan, cập nhật những thông tin khoa học và biết linh hoạt áp dụng vào thực tế, có vậy mới truyền cảm hứng cho các em qua mỗi bài học. 3. Đánh giá kết quả giải pháp: Với những bài học có áp dụng hoạt động gợi động cơ cho các đối tượng mà tôi giảng dạy, tôi nhận thấy có sự thay đổi trong cách học và tiếp thu kiến thức. Các em chủ động hơn, hứng thú hơn so với trước đây, biết lắng nghe, biết đặt câu hỏi về những gì mình chưa hiểu và quan trọng biết mình học được gì, vận dụng ra sao trong cuộc sống. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Những gì mà tôi trình bày trên thực ra không phải là mới, mà chỉ là có sự tìm tòi, đầu tư cho một bài dạy cuốn hút được người học, quan tâm đến cảm nhận của học sinh, đến những gì mà các em cần tiếp thu được sau bài học đó. Tuy không nhiều nhưng cũng góp phần làm cho học sinh nhận biết được vẻ đẹp của toán học và yêu thích học môn toán. Sau khi thực nghiệm việc tăng cường hoạt động gợi động cơ cho mỗi bài học cho hai lớp tôi giảng dạy từ đầu năm cho tới cuối học kì II, với câu hỏi khảo sát tương tự , tôi thu được kết quả số lượng các học viên cho là môn Toán khó, không thích học, không thấy bộ môn này liên quan đến thực tế đời sống được thống kê như sau: LỚP SỐ LƯỢNG TỈ LỆ 10A3 09/35 25,71% 10A4 10/46 21,74% So với bảng thống kê ban đầu có thể thấy số lượng học viên thấy việc học bộ môn toán bớt nặng nhọc, cần thiết và thấy được ứng dụng của môn học này với thực tế tăng lên đáng kể: Lớp 10A3 tăng 60%. Lớp 10A4 tăng 67,39%.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phat_huy_hoat_dong_goi_dong_co_trong_g.pdf