Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử chương trình Lịch sử lớp 10 - Cơ bản

doc 58 trang sk10 10/08/2024 1060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử chương trình Lịch sử lớp 10 - Cơ bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử chương trình Lịch sử lớp 10 - Cơ bản

Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử chương trình Lịch sử lớp 10 - Cơ bản
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
 TRƯỜNG PHỔ THÔNG DTNT CẤP 2-3 VĨNH PHÚC
 =====***=====
 BÁO CÁO KẾT QUẢ 
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
 Tên sáng kiến: Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy 
học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm 
nâng cao hiệu quả bài học lịch sử chương trình Lịch sử lớp 10 - 
cơ bản
 Tác giả sáng kiến: Vũ Thị Trâm
 Mã sáng kiến: 04 - 57 - 02
 Vĩnh Phúc, năm 2020 
 1
 Vĩnh Yên, Năm 2015 DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
GV: Giáo viên
HS: Học sinh 
THPT: Trung học phổ thông 
PPDH: Phương pháp dạy học 
THPTQG: Trung học phổ thông quốc gia 
DHDA: Dạy học dự án 
 3 phải có đó là các năng lực chung cốt lõi. Năng lực cốt lõi bao gồm những năng lực 
cơ bản: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực 
hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực tính toán, năng lực 
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
 Trước yêu cầu đổi mới để đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới, đời 
hỏi giáo viên tất cả các bộ môn phải tích cực vận dụng các phương pháp và kĩ thuật 
dạy học tích cực nhằm hình thành năng lực người học. 
 Trong xu thế phát triển của xã hội hiện nay, toàn ngành giáo dục nói chung 
 và các trường THPT nói riêng, nhiều phụ huynh và học sinh quan niệm sai rằng: 
 môn Lịch sử là môn phụ, môn học thuộc lòng. Thậm chí nhiều học sinh còn cảm 
 thấy sợ học môn Lịch sử vì có nhiều sự kiện, nhiều số liệu lại khô khan, không 
 yêu thích môn lịch sử... Học sinh sợ Lịch sử, không lựa chọn môn Lịch sử làm 
 môn chuyên khi vào trường chuyên, lớp chọn. 
 Một thực tế nữa là trong quá trình giảng dạy, nhiều giáo viên đã không chú ý 
 đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn lịch sử, dạy quen theo lối truyền 
 thống thầy đọc- trò chép, chỉ truyền tải những kiến thức có sẵn trong sách giáo 
 khoa hay biến giờ học lịch sử thành giờ học chính trị...Đây cũng chính là một 
 trong những nguyên nhân làm giảm sút chất lượng dạy và học môn Lịch sử, làm 
 cho học sinh không yêu thích môn lịch sử. Câu chuyện về những “lỗ hổng ” trong 
 dạy sử, học sử ở cấp học phổ thông luôn trở thành đề tài nóng trên mỗi diễn đàn. 
 Chuyện học sinh, sinh viên “mù sử” thực sự trở thành nỗi xót xa của toàn xã hội. 
 Trước sự quan tâm ấy, chúng tôi – những giáo viên dạy môn lịch sử luôn trăn trở 
 về việc dạy của mình, làm sao để nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử?, làm sao 
 để các em học sinh yêu thích môn học này?...
 Trong quá trình giảng dạy và khảo nghiệm thực tế bộ môn, đặc biệt khi dạy 
 phần Lịch sử lớp 10, chương trình Lịch sử lớp 10 bao gồm các kiến thức của Lịch 
 sử thời kì xã hội nguyên thủy, thời kì cổ đại, trung đại và một phần cận đại. Đó là 
 5 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 
 Trước hết, sáng kiến được áp dụng trực tiếp ở lĩnh vực giáo dục, đào tạo 
học sinh, giúp học sinh hình thành các năng lực, tích cực, hứng thú trong quá trình 
nghiên cứu, tìm hiểu bài học lịch sử. Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật 
dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh, nâng cao hiệu quả 
bài học lịch sử, nhằm phát triển năng lực người học phù hợp với đề án đổi mới 
chương trình sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học mà Bộ GD&ĐT 
đang tiến hành. Đồng thời đây là một yêu cầu quan trọng trong việc đổi mới 
phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
 Mặt khác, sáng kiến còn có thể được áp dụng trong các lĩnh vực khác của đời 
 sống xã hội như hoạt động nghiên cứu, lập kế hoạch hình thành các năng lực và 
 kĩ năng cần thiết trong quá trình làm việc và cuộc sống con người.
 Sáng kiến đã giải quyết được các vấn đề thiết yếu sau: làm rõ được tầm quan 
 trọng của việc áp dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định 
 hướng phát triển năng lực học sinh, nâng cao hiệu quả bài học lịch sử; tạo hứng 
 thú và niềm yêu thích, đam mê đối với môn học. Điều này giải quyết được băn 
 khoăn, lo lắng của ngành giáo dục và sự quan tâm của xã hội về thực trạng dạy và 
 học Lịch sử hiện nay. 
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 09/2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến: 
7.1.1. Tầm quan trọng của việc vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích 
cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
 Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị 
 quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 - 
 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong 
 các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999).
 7 cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng 
thú cho người học. 
 Để hình thành và phát triển năng lực cần xác định các thành phần và cấu trúc 
của chúng. Có nhiều loại năng lực khác nhau. Việc mô tả cấu trúc và các thành 
phần năng lực cũng khác nhau. Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô 
tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần: Năng lực chuyên môn, năng lực 
phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể.
 Năng lực chuyên môn (Professional competency): Là khả năng thực hiện các 
nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả năng đánh giá kết quả chuyên môn một cách 
độc lập, có phương pháp và chính xác về mặt chuyên môn. Nó được tiếp nhận qua 
việc học nội dung – chuyên môn và chủ yếu gắn với khả năng nhận thức và tâm lý 
vận động.
 Năng lực phương pháp (Methodical competency): Là khả năng đối với những 
hành động có kế hoạch, định hướng mục đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ 
và vấn đề. Năng lực phương pháp bao gồm năng lực phương pháp chung và 
phương pháp chuyên môn. Trung tâm của phương pháp nhận thức là những khả 
năng tiếp nhận, xử lý, đánh giá, truyền thụ và trình bày tri thức. Nó được tiếp nhận 
qua việc học phương pháp luận – giải quyết vấn đề.
 Năng lực xã hội (Social competency): Là khả năng đạt được mục đích trong 
những tình huống giao tiếp ứng xử xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác 
nhau trong sự phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác. Nó được tiếp nhận 
qua việc học giao tiếp.
 Năng lực cá thể (Induvidual competency): Là khả năng xác định, đánh giá 
được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của cá nhân, phát triển 
năng khiếu, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cá nhân, những quan điểm, 
chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các thái độ và hành vi ứng xử. Nó được 
 9 hình thức như theo lời giải, đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí 
để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót. 
 Trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng 
phát triển năng lực người học, người giáo viên cần phải tích cực áp dụng các 
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực . Đặc biệt, để thay đổi thực trạng của 
việc dạy và học môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông, một trong những yêu 
cầu cấp thiết đối với các thầy cô giáo bộ môn Lịch sử đó là làm sao để có thể gây 
hứng thú, yêu thích môn Lịch sử cho học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần phải biết 
vận dụng linh hoạt, hợp lí các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định 
hướng phát triển năng lực học sinh. 
 Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, 
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng 
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng 
tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là 
tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào 
phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích 
cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
 Muốn áp dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải biết vận 
dụng các kĩ thuật dạy học tích cực để phát triển tư duy, kĩ năng và năng lực cho 
học sinh. Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo 
viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều 
khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của 
phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc 
thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. 
Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy 
tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ, 
Bản đồ tư duy, 3 lần 3, “KWL”. Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật 
 11 Dạy học liên môn là phải xác định được các nội dung kiến thức liên quan 
đến các môn học khác để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng 
một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên 
môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình 
môn học đó và không phải dạy ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có 
tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học 
riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các môn liên 
qua
 Giáo viên có thể tích hợp các nội dung ở các môn học khác nhau, hoặc các 
kiến thức khác liên quan đến bài giảng để chuyển tải đến học sinh những chủ đề 
giáo dục lồng ghép thông qua các hình thức truyền đạt bằng trình chiếu, giảng dạy, 
thảo luận, dạy học theo dự án.
 Đối với môn Lịch sử, để hiểu sâu kiến thức nội dung bài học lịch sử đòi hỏi 
giáo viên và học sinh cần vận dụng kiến thức của nhiều môn học liên quan như 
văn học, Địa lí, Âm nhạc, Giáo dục công dânQua đó sẽ giúp học sinh có hứng 
thú và yêu thích hơn khi nghiên cứu, tìm hiểu một vấn đề lịch sử. 
 Một số lưu ý đối với giáo viên: Tích hợp liên môn không phải là tích hợp đa 
môn; Không phải bài nào cũng phải dạy tích hợp liên môn. Giáo viên nên hướng 
dẫn học sinh vận dụng kiến thức liên môn để nghiên cứu, tìm hiểu kiến thức lịch 
sử, tránh việc vận dụng một cách hình thức, máy móc.
 Với chương trình lịch sử lớp 10, giáo viên có thể tích hợp theo chủ đề như: 
Sự phát triển kinh tế thời cổ, trung, cận đại; Sự hình thành và phát triển chế độ 
phong kiến; Văn hóa cổ, trung đại, cận đại;  Hoặc giáo viên có thể dạy học tích 
hợp trong từng bài.
 Ví dụ: Khi dạy bài 6: “Các quốc gia Ấn và văn hóa truyền thống Ấn Độ”. 
Giáo viên có thể tích hợp với môn Địa lí (Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lí của Ấn 
Độ), Hay môn toán (Hệ thống chữ số cả số 0), môn văn qua các tác phẩm văn học 
 13 học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. 
 Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn xây dựng quan 
 điểm dạy học theo tình huống. 
 Trong dạy học lịch sử, tình huống có vấn đề xuất phát từ 3 cơ sở :Các tình 
 huống quyết định hoặc tình huống lựa chọn của quá trình lịch sử; Các mâu thuẫn 
 trong kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử; Mâu thuẫn của kiến thức 
 cũ với tư liệu mới được tiếp cận.Trên cơ sở những tình huống có vấn đề, giáo viên 
 nêu ra nhiệm vụ trong các câu hỏi tình huống.
 Lịch sử lớp 10 bao gồm kiến thức lịch sử thế giới cổ, trung, cận đại, Việt 
 Nam thời nguyên thủy, thời cổ trung đại, cận đại với nhiều sự kiện, khái niệm trìu 
 tượng. Dạy học giải quyết vấn đề là một trong những phương pháp tích cực giúp 
 kích thích tư duy của học sinh, học sinh tích cực, chủ động trong việc giải quyết 
 vấn đề và lĩnh hội kiến thức, hình thành năng lực học sinh. 
 Ví dụ, Khi dạy bài 1: “Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thuỷ” 
giáo viên có thể đưa ra các quan niệm khác nhau về nguồn gốc loài người: Đạo 
Thiên chúa giáo cho rằng: con người và xã hội loài người là do Chúa Trời sáng tạo 
ra; Đạo Hồi quan niệm con người do Thánh A-la sáng tạo ra; hay truyền thuyết về 
A-đam, Evar tạo ra con người; Lại cũng có nhận định cho rằng : con người có 
nguồn gốc từ động vật bậc cao- một loài vượn cổ. Từ những quan niệm khác nhau 
về nguồn gốc loài người, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi nhận thức như sau: Con 
người có nguồn gốc từ đâu ? Tiến hoá như thế nào ? Bầy người nguyên thuỷ 
có gì khác so với bầy động vật ? Dựa vào những kiến thức đã học ở cấp học dưới 
và kiến thức sinh vật học, học sinh sẽ dễ dàng trả lời được nguồn gốc của con 
người chính là sự phát triển lâu dài từ động vật cấp thấp lên động vật cấp cao. Đỉnh 
cao của quá trình này là sự chuyển biến từ vượn thành người. Giáo viên có thể gợi 
ý tiếp: trong quá trình tiến hoá, loài người phải trải qua một giai đoạn trung gian, 
đó là Người tối cổ. 
 15

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_van_dung_mot_so_phuong_phap_va_ki_thua.doc