Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng câu hỏi dạng PISA trong dạy học chương Thành phần hóa học của tế bào - Sinh học 10 cơ bản theo hướng phát triển năng học sinh

pdf 42 trang sk10 03/08/2024 870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng câu hỏi dạng PISA trong dạy học chương Thành phần hóa học của tế bào - Sinh học 10 cơ bản theo hướng phát triển năng học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng câu hỏi dạng PISA trong dạy học chương Thành phần hóa học của tế bào - Sinh học 10 cơ bản theo hướng phát triển năng học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng và sử dụng câu hỏi dạng PISA trong dạy học chương Thành phần hóa học của tế bào - Sinh học 10 cơ bản theo hướng phát triển năng học sinh
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN 
 TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 3 
 --------  -------- 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
 Tên đề tài: 
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG CÂU HỎI DẠNG PISA TRONG 
 DẠY HỌC CHƯƠNG “THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA TẾ 
 BÀO” SINH HỌC 10 CB THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN 
 NĂNG LỰC HỌC SINH. 
 Tác giả: Phạm Thị Phương Thảo - Nguyễn Thị Lan Anh 
 Đơn vị: Trường THPT Nghi Lộc 3 - Tổ Tự nhiên 
 Trường THPT Nguyễn Duy Trinh - Tổ Tự nhiên 
 Năm học 2020 - 2021 
 QUY ƯỚC VỀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
 SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI 
 Viết tắt Viết đầy đủ 
 GV : Giáo viên 
 HS : Học sinh 
 PISA : Programme for International Student Assessment 
 OECD Organisation for Economic Co-operation and Development 
 SKKN : Sáng kiến kinh nghiệm 
 SGK : Sách giáo khoa 
 THPT : Trung học phổ thông 
 SL : Số lượng 
 GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo 
 ĐC : Đối chứng 
 TN : Thực nghiệm 
NL3 : Nghi lộc 3 
NDT : Nguyễn Duy Trinh 
TB : Trung bình 
 Mục tiêu khi xây dựng câu hỏi là chúng phải gắn với các tình huống hay gặp trong 
thực tiễn, khuyến khích học sinh sử dụng kiến thức đã học kết hợp với thái độ tình 
cảm để giải quyết hiệu quả một vấn đề. 
 Đề tài cũng sẽ nghiên cứu các phương pháp để ứng dụng công nghệ thông tin vào 
quá trình kiểm tra, giảm tải áp lực cho người dạy. Với mong muốn những học sinh 
tiếp cận, làm quen được với cách thức ra đề không chỉ trong các tiết kiểm tra, mà 
ngay cả ôn tập hằng ngày, kể cả khi không đến lớp. Chúng tôi mạnh dạn xây dựng 
các bài tập dạng PISA nhưng có ứng dụng công nghệ thông tin để học sinh có thể 
học tập trực tuyến, mọi lúc mọi nơi. 
 2 chứng tỏ một điều việc đánh giá ở trường chưa chú trọng phát triển năng lực người 
học cụ thể là kĩ năng giải quyết vấn đề nảy sinh ở thực tiễn. PISA đề ra những tình 
huống gắn liền với thực tiễn, không bắt buộc người học phải học thuộc một cách 
máy móc mà chú trọng đến việc người học sẽ sử dụng những kiến thức đó như thế 
nào. 
 Và hơn hết đánh giá của PISA hướng đến việc để học sinh phát huy được ý kiến 
cá nhân, không phải ghi nhớ một cách thụ động,các câu hỏi của PISA không đơn 
thuần là câu hỏi trắc nghiệm, mà các câu trắc nghiệm này có những ý kiến của bản 
thân. Đáp án nhận được không bao giờ cũng là đúng hoặc sai như ta vẫn gặp, mà 
đáp án tôn trọng câu trả lời của người học, có trả lời đúng một cách đầy đủ, trả lời 
đúng nhưng chưa đầy đủ hoặc không trả lời. Câu hỏi của PISA đã phát huy ưu điểm 
của hai hình thức thi cử hay gặp là trắc nghiệm và tự luận. Các câu hỏi trả lời ngắn 
hay trả lời dài của PISA đã hạn chế được nhược điểm của câu hỏi trắc nghiệm chúng 
ta vẫn dùng là không thể hiện được tính sáng tạo, tư duy logic, khả năng biểu cảm 
trước các vẫn đề hay gặp. 
 Tóm lại, bài thi của PISA chú trọng phát triển năng lực người học, phù hợp với 
đổi mới kiểm tra đánh giá mà chúng ta đang tích cực hướng đến. Về lâu về dài việc 
học tập cần thiết gắn liền với cuộc sống, quay lại phục vụ cuộc sống thì việc học mới 
thiết thực, việc đổi mới mới có ý nghĩa. Hình thức kiểm tra PISA cũng phù hợp với 
sự thay đổi những năm tiếp theo mà giáo dục đang hướng tới. 
2.2. Thực trạng của vấn đề 
 2.2.1. Thuận lợi 
 Ngày nay với sự xích lại gần nhau của các quốc gia trên toàn cầu, khoảng cách về 
địa lí dường như không còn có ý nghĩa. Tất cả các quốc gia đều có thể tham gia vào 
các hoạt động chung, các nhà chức trách cũng luôn chú trọng phát triển giáo dục, 
thúc đẩy giáo dục nước nhà vươn tầm quốc tế. Việt Nam tham gia PISA năm 2012 
với kết quả xếp thấp nhất trong các nước tham gia thi khảo sát. Qua các năm đến 
năm 2015 kết quả Việt Nam đã lọt vào tốp 10 các nước tham gia đối với lĩnh vực 
khoa học. Kết quả PISA 2015 cùng với kết quả trong các kì thi Olympic môn Toán, 
Tin học, Vật lý, Hóa học và Sinh học cho thấy giáo dục Việt Nam không chỉ đạt 
thành tựu về phát triển quy mô, số lượng mà còn đạt chất lượng giáo dục phổ thông 
cơ bản không thua kém các nước trên thế giới. Việc quan tâm đầu tư của nhà nước 
chính là một thuận lợi to lớn trong việc đổi mới kiểm tra và thi cử trong giai đoạn 
hiện nay. Đặc biệt trong thời gian sắp tới khi chương trình giáo dục mới được triển 
khai thì cách kiểm tra này là hoàn toàn phù hợp. 
 Trong thời đại công nghệ 4.0 việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin 
(CNTT) khá đơn giản và tiện lợi. Học sinh có nhiều điều kiên để sử dụng CNTT, 
các em cũng khá nhanh nhạy trong việc tiếp cận một vấn đề mới. 
 Về phía các em học sinh việc thi cử chú trọng ghi nhớ, tái hiện, quay cuồng 
với các bài toán hóc búa làm các em khá mệt mỏi và mất đi tình yêu đối với môn 
 4 lại chú trọng hình thành phẩm chất năng lực để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. 
Vì thế nội dung chương trình cũng không quá chi tiết, có tính mở để người dạy cập 
nhật kiến thức mới, thỏa sức sáng tạo trong khi dạy học. Người học vì thế không quá 
phụ thuộc vào tài liệu, sách giáo khoa. 
 Trong quá trình đánh giá kết quả của học sinh cần chú trọng đến khả năng của 
học sinh, đánh giá được sự tiến bộ của học sinh, tôn trọng câu trả lời của học sinh 
trong từng câu hỏi cũng như đáp án chấm điểm. Kết quả mà chúng ta cần hướng tới 
là đào tạo ra những con người năng động tự tin. 
 Đối với môn sinh học những năng lực cần hướng bao gồm tất cả các mặt kiến 
thức, kĩ năng, thái độ và tình cảm. Môn sinh học giúp hình thành các năng lực sau: 
- Năng lực giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng 
trong tự nhiên, bảo vệ sức khỏe con người. 
- Năng lực hợp tác, năng lực thực nghiệm, năng lực quan sát, năng lực tự học, năng 
lực sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin 
Để phát triển được các năng lực này đòi hỏi bài tập có nhiều hình thức khác nhau: 
trắc nghiệm, tự luận, bài tập thí nghiệm để phát huy được hết ưu và nhược điểm 
của mỗi hình thức. Bài tập đưa ra dưới hình thức một nhiệm vụ, một đề nghị, một 
yêu cầu làm sao vừa kiểm tra được các kiến thức đã học, cũng như phát hiện những 
học sinh có năng lực khác nhau như có những em tính toán tốt, có những em vận 
dụng được kiến thức để giải quyết vấn đề, có những em có năng lực thiên về thí 
nghiệm, thực hành Các thành tố quan trọng trong đánh giá việc đổi mới xây dựng 
bài tập là sự phong phú của bài tập, chất lượng bài tập, liên kết bài tập, hiệu quả của 
bài tập mang lại. 
 2.3.2. Đặc điểm của bài thi dạng PISA 
- Mỗi bài thi của PISA là một chuỗi những nhiệm vụ liên quan đến phần dẫn hoặc 
tình huống, một bộ đề thi gồm nhiều bài thi. 
- Phần dẫn là một trích đoạn hay một đoạn văn nói về một vấn đề cụ thể, xác thực. 
Đối với các môn khoa học phần dẫn chính là những kiến thức, lập luận liên quan đến 
một khái niệm, định nghĩa hay tính chất nào đó. Phần dẫn phải đảm bảo các yếu tố: 
tính khoa học, văn hóa phù hợp, ngôn ngữ phù hợp, gây hứng thú cho độ tuổi học 
sinh. 
- Mỗi một câu hỏi là một nhiệm vụ được nêu ra kèm với các phương án trả lời hoặc 
yêu cầu học sinh viết ra câu trả lời. Các câu hỏi và phương án trả lời phải đáp ứng 
yêu cầu: diễn đạt bằng ngôn ngữ càng đơn giản càng tốt, phải dự kiến được những 
câu trả lời của học sinh, tránh những câu hỏi mơ hồ, không logic. 
Các dạng câu hỏi thường gặp trong đề thi dạng PISA: 
- Câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn: đây là dạng câu hỏi học sinh đã quá quen 
thuộc trong đề kiểm tra định kì và đề thi THPT quốc gia. Vẫn cần chú ý nguyên tắc 
 6 Nếu mức đầy đủ là 2 điểm thì mức không đầy đủ là 1 điểm nếu trả lời đúng một 
phần về các khía cạnh nêu ra, hoặc chỉ trả lời được các ý theo nghĩa đen mà chưa thể 
hiện được hiểu biết khi câu hỏi yêu cầu diễn giải hoặc suy luận. Mức không đầy đủ 
của câu hỏi này là 0 điểm nếu câu trả lời không đúng, không thể hiện được sự hiểu 
biết liên quan đến câu hỏi. 
 Với câu hỏi có thang 3 điểm thì mức không đầy đủ của câu trả lời là mức 2 điểm 
 với câu trả lời có độ đúng vừa phải, mức 1 điểm nếu câu trả lời đúng tối thiểu, và 
 mức 0 điểm nếu câu trả lời sai. 
Mức không đạt: câu trả lời hoàn toàn bỏ trống, mã hóa cho mức này là mã 9. 
Cụ thể như sau: 
 Mức độ đạt được của Điểm 
 Mã hóa 
 câu trả lời 019 0129 
 Mức đầy đủ 1 hoặc 2 1 2 hoặc 3 
 Mức không đầy đủ 1 1 hoặc 2 
 0 hoặc 0,5 0 hoặc 0,5 
 Mức Trả lời sai 0 
 (nếu sai 3 câu) (nếu sai 3 câu) 
 không đạt 
 Không trả lời 9 0 0 
Nhận xét: 
 Như vậy, các câu hỏi của PISA định hướng phát triển năng lực học sinh ở cả câu 
hỏi và cả phần hướng dẫn chấm. Từ kết quả chấm có thể phân ra được các mức độ 
hiểu biết khác nhau của học sinh. Với cách kiểm tra thông thường ta chỉ biết được 
học sinh trả lời đúng hay sai, nhưng với dạng câu hỏi PISA ta biết được học sinh khi 
trả lời ở mức độ nào, từ nhiều câu hỏi khác nhau biết được học sinh có năng lực gì, 
nếu học sinh điểm thấp ta cũng biết được nguyên nhân do đâu (nếu các câu bỏ trống 
nhiều chứng tỏ học sinh không chú ý, lơ đãng khi học, nếu các câu thuộc mã không 
đầy đủ nhiều cho thấy khả năng lập luận, hiểu trọn vẹn một vấn đề chưa cao) 
 2.3.3. Các bước xây dựng bài tập dạng PISA 
Bước 1: Với kì thi khảo sát của PISA trong mỗi bộ đề thi sẽ có nhiều đề, trong mỗi 
một đề sẽ có các bài, trong mỗi bài lại có những câu hỏi liên quan đến bài đó. Bài ở 
đây không nhất thiết phải là bài học trên lớp mà có thể là một nội dung cụ thể nào 
đó. Trong mỗi bài thi có phần dẫn và câu hỏi như đã nói ở trên. 
 Như vậy cần xác định mục tiêu giáo dục, lựa chọn đơn vị kiến thức (chương nào, 
bài nào, chủ đề nào) cho từng bài tập. 
 Chủ đề lựa chọn vừa có ý nghĩa về mặt khoa học vừa gắn liền với thực tiễn và đời 
sống, tăng cường khả năng giải quyết vấn đề của học sinh nhưng cũng không quá 
khó, quá trừu tượng làm học sinh nản chí. 
 Để phù hợp với nội dung đánh giá kiểm tra trên lớp tôi xây dựng các bài tập, trong 
mỗi bài tập có các câu hỏi liên quan đến các vấn đề trong chương “Thành phần hóa 
 8 
Câu 4. Nước khởi nguồn sự sống. 0 1 2 9 
 Các nhà khoa học khi tìm kiếm sự sống trên các hành tinh khác đều tìm kiếm sự có 
mặt của nước vì lý do nào sau đây? 
 A. Nước là thành phần chủ yếu tham gia vào cấu trúc tế bào. 
 B. Nước là dung môi cho mọi phản ứng sinh hóa trong tế bào. 
 C. Nước được cấu tạo từ các nguyên tố đa lượng. 
 D. Nước đảm bảo cho tế bào và cơ thể có nhiệt độ ổn định. 
 Hướng dẫn đánh giá bài 1. 
 Trong các đề thi PISA người ta có quy luật riêng để quy ra điểm tương ứng với 
các câu trả lời của học sinh. Tùy vào mức độ bài mà thầy cô cho điểm cho phù hợp. 
Ở đây tôi sử dụng quy tắc sau: với các câu trả lời mức đầy đủ cho 2 điểm, mức không 
đầy đủ cho 1 điểm, mức không đạt cho 0 điểm. Theo PISA những học sinh đã cố 
gắng làm bài mặc dù kết quả chưa đúng (mã 0) vẫn nên đánh giá cao hơn những em 
không làm bài (mã 9). Vì thế tôi xây dựng cách tính điểm cho hai mã này cho cả bài 
thi như sau, với từng câu hỏi mức không đạt là 0 điểm nhưng trong một bài thi nếu 
có 3 đáp án mức không đạt mã 0 cho 0,5 điểm. 
Câu 1. 
Mức đầy đủ: Mã 1 đáp án C. 
Mức không đạt: Mã 0 đáp án khác, mã 9 không trả lời. 
Câu 2. 
Mức đầy đủ: Mã 2 
- Phân tử nước được cấu tạo từ một nguyên tử ôxi kết hợp với hai nguyên tử hiđrô 
mà đôi electron trong mối liên kết này bị kéo lệch về phía ôxi nên phân tử nước có 
tính phân cực, dễ dàng liên kết với các phân tử nước khác và với các chất khác. 
- Mặt khác, các phân tử nước liên kết với nhau bằng các liên kết hiđrô (liên kết kém 
bền) nên các phân tử, nguyên tử hoặc các chất khác dễ bẻ gãy liên kết đó để tạo nên 
các hợp chất mới. 
Mức không đầy đủ: 
Mã 1. Học sinh chỉ trả lời được 1 ý đúng. 
Mức không đạt: 
Mã 0 câu trả lời không liên quan, mã 9 không trả lời. 
Câu 3. 
Mức đầy đủ: Mã 2: 1 Đúng, 2 Sai, 3 Đúng. 
Mức chưa đầy đủ: 
 10 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_xay_dung_va_su_dung_cau_hoi_dang_pisa.pdf